100-CON NGỰA THÀNH TROY/ 20
Tham Khảo
] Bài
kinh “Phạm Tội” (1), số 241, Tăng Chi tập 2, chương 4, XXV. Phẩm Sợ
Hãi Phạm Tội, trang 272-274
“1. Một thời,
Thế Tôn trú ở Kosambī, tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả
Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Tôn giả Ānanda đang ngồi xuống một bên:
- Này
Ānanda, sự tranh chấp ấy đã được chấm dứt chưa?
- Từ đâu, bạch
Thế Tôn, sự tranh chấp ấy sẽ chấm dứt được? Bāhiya, vị đồng trú với Tôn giả
Anuruddha hoàn toàn đứng về phía hòa hợp tăng. Do vậy, Tôn giả Anuruddha nghĩ rằng
không nên nói một lời nào.
- Này
Ānanda, có khi nào Anuruddha lại can thiệp vào những vấn đề tranh chấp giữa
chúng Tăng? Phải chăng, này Ānanda, khi nào có vấn đề tranh chấp gì khởi lên,
chính hai Thầy Sārīputta và Moggallāna làm chấm dứt tất cả tranh chấp ấy?
2. Này
Ānanda, do thấy bốn lợi ích này, kẻ ác Tỷ-kheo thích thú với phá hòa hợp
Tăng.
Thế nào là bốn?
Ở đây, này
Ānanda, kẻ ác Tỷ-kheo, do theo ác giới, theo ác pháp, không trong sạch,
sở hành đáng nghi ngờ, có hành động che giấu, không phải Sa-môn nhưng tự xưng
là Sa-môn, không hành Phạm hạnh nhưng tự xưng là hành Phạm hạnh, nội tâm mục
nát, đầy ứ dục vọng, một đống rác dơ bẩn. Vị ấy nghĩ như sau: "Nếu
các Tỷ-kheo sẽ biết ta là ác giới, theo ác pháp, không thanh tịnh ... một đống
rác dơ bẩn; nếu họ hòa hợp, họ sẽ làm hại ta; nếu họ chia rẽ, họ sẽ không làm hại
được ta".
Này Ānanda,
do thấy lợi ích thứ nhất này, ác Tỷ-kheo thích thú với pháp hòa
hợp Tăng.
3. Lại nữa,
này Ānanda, Tỷ-kheo có tà kiến, thành tựu với chấp thủ biên kiến, vị
ấy nghĩ như sau: "Nếu các Tỷ-kheo sẽ biết ta là có ác tri
kiến, chấp thủ tri kiến; nếu họ hòa hợp, họ sẽ làm hại ta; nếu họ chia rẽ,
họ sẽ không làm hại được ta”.
Này Ānanda,
do thấy lợi ích thứ hai này, ác Tỷ-kheo thích thú với pháp hòa hợp
Tăng.
4. Lại nữa,
này Ānanda, ác Tỷ-kheo có tà mạng, nuôi sống mình với tà mạng. Vị ấy
suy nghĩ như sau: "Nếu các Tỷ-kheo sẽ biết ta có tà mạng,
nuôi sống mình với tà mạng; nếu họ hòa hợp, họ sẽ làm hại ta; nếu họ chia rẽ,
họ sẽ không làm hại được ta".
Này Ānanda,
do thấy lợi ích thứ ba này, ác Tỷ-kheo thích thú với pháp hòa hợp
Tăng.
5. Lại nữa,
này Ānanda, ác Tỷ-kheo tham muốn lợi dưỡng, tham muốn cung kính, tham
muốn không bị khinh miệt. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Nếu các Tỷ-kheo
sẽ biết ta là tham muốn lợi dưỡng, tham muốn cung kính, tham muốn không
bị kinh miệt; nếu họ hòa hợp, họ sẽ làm hại ta; nếu họ chia rẽ, họ sẽ không
làm hại được ta".
Này Ānanda,
do thấy lợi ích thứ tư này, ác Tỷ-kheo thích thú với pháp hòa hợp
Tăng.
Do thấy bốn
lợi ích này, này Ānanda, kẻ ác Tỷ-kheo thích thú với phá hòa hợp Tăng.”
{ Ghi
chú của Nhị Tạng Vương:
Sự kiện và địa
điểm trong hai bài kinh Phạm Tội và kinh Kosambī có nhiều trùng hợp giúp đi đến
khẳng định “Sự tranh chấp ấy” được Đức Thế Tôn nói đến là một.
Theo trên,
nguyên nhân của sự phá hòa hợp Tăng được xác định thêm là do sự kích động của vị
“ác Tỳ-kheo” ác giới, ác kiến, tà mạng và tham vọng lợi dưỡng cung kính.
Xét
Devadatta đều có thừa bốn ác pháp này. Dưới đây là một số nhận xét của Đức Thế
Tôn về Devadatta:
“Do
bị tám phi Diệu Pháp chinh phục, tâm bị xâm chiếm, này các Tỷ-kheo, Devadatta bị
rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi. Thế
nào là tám?
Này các Tỷ-kheo, bị
lợi dưỡng chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta bị sanh vào đọa xứ, địa
ngục sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi. Này các Tỷ-kheo, bị
không lợi dưỡng chinh phục, ... bị danh vọng chinh phục ... bị
không danh vọng chinh phục ... bị cung kính chinh phục ... bị
không cung kính chinh phục... bị ác dục chinh phục ... bị
ác bằng hữu chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa
ngục, sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi” (Tăng Chi 3, bài kinh “Devadatta”,
trang 502).
“Ðiều này
đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến và tôi đã được nghe:
Này các Tỷ-kheo,
bị chinh phục bởi ba phi Diệu Pháp, với tâm bị chúng xâm chiếm,
Devadatta bị rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đây, không thể
cứu chữa. Thế nào là ba?
Bị chinh
phục bởi ác dục tâm bị ác dục xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào
đoạ xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu chữa.
Bị chinh
phục bởi ác bằng hữu, với tâm bị ác bằng hữu xâm chiếm, Devadatta bị
rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu chữa.
Dầu cho
còn có những thượng pháp cần phải làm, do đạt được những chứng đắc đặc
biệt, nhưng chỉ có giá trị tầm thường, Devadatta đã dừng lại giữa đường.
Này các Tỷ-kheo,
bị chinh phục bởi ba phi Diệu Pháp này, với tâm bị chúng xâm chiếm, Devadatta bị
rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu
chữa” (It.
85, Tiểu Bộ 1, tr. 413)
“Ðem đến hại
mình, này các Tỷ-kheo, khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho
Devadatta; đem đến bất hạnh cho người, này các Tỷ-kheo, khi lợi
dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta!” (Kinh Devadatta, số 68,
Tăng Chi 4 Pháp)
] Bài
kinh “Kakudha”, số 100, Tăng Chi 2, Chương 5, X. Phẩm Kakudha, tr. 507-513
“1. Một thời, Thế
Tôn trú ở Kosambī, tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ Kakudha, người Koliya,
là thị giả của Tôn giả Mahā Moggallāna vừa mệnh chung và sanh ra với một thân
do ý tạo, thân ấy với tự thể có được (to rộng) ví như hai hay ba thửa ruộng
làng ở Magadha.
Vị ấy, với tự
thể như vậy, không làm cho tự mình hay làm cho người khác bị bệnh. Rồi Thiên tử
Kakudha đi đến Mahā Moggallāna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahā Moggallāna rồi
đứng một bên. Thiên tử Kakudha thưa với Tôn giả Mahā Moggallāna:
- Thưa Tôn
giả, Devadatta có khởi lên ý muốn như sau: "Ta sẽ lãnh đạo chúng Tăng".
Với tâm khởi lên như vậy, thưa Tôn giả, thần thông của Devadatta bị thối thất.
Thiên tử
Kakudha nói lên như vậy, nói như vậy xong, đảnh lễ Tôn giả Mahā Moggallāna,
thân phía hữu hướng về ngài rồi biến mất tại chỗ. Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna
đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Mahā Moggallāna bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế
Tôn, Kakudha, người xứ Koliya, là thị giả của con, mệnh chung không bao lâu,
sanh ra với thân do ý tạo thành, thân ấy với tự thể có được (to rộng) ví như
hai hay ba thửa ruộng làng ở Magadha. Vị ấy với tự thể như vậy, không làm cho tự
mình hay làm cho người khác bị bệnh. Rồi Thiên tử Kakudha đi đến con; sau khi đến,
đảnh lễ con rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, bạch Thế Tôn, Thiên tử
Kakudha thưa với con: "Thưa Tôn giả, Devadatta có khởi lên ý muốn như sau:
"Ta sẽ lãnh đạo chúng Tăng". Với tâm khởi lên như vậy. Thưa Tôn giả,
thần thông của Devadatta bị thối thất". Thiên tử Kakudha, bạch Thế Tôn,
nói lên như vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ con, rồi thân phía hữu hướng về con
rồi biến mất.
- Này
Moggallāna, có phải Thầy với tâm của mình biết được tâm của Thiên tử Kakudha rằng:
"Ðiều gì Thiên tử Kakudha nói lên, tất cả đều là như vậy, không thể khác
được"?
- Bạch Thế
Tôn, với tâm của con, con biết được tâm của Thiên tử Kakudha rằng: "Ðiều
gì Thiên tử Kakudha nói lên, tất cả đều là như vậy, không thể khác được".
- Này
Moggallāna, hãy phòng hộ lời nói này! Này Moggallāna, hãy phòng hộ lời nói này.
Nay kẻ ngu si ấy sẽ tự mình thấy rõ tự mình. Này Moggallāna, có năm bậc Ðạo
sư này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Ở đây,
này Moggallāna, có vị Ðạo sư, giới không thanh tịnh lại tự cho
rằng: "Ta có giới thanh tịnh. Giới của ta thanh tịnh, chói sáng, không có
uế nhiễm".
Nhưng các đệ
tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Ðạo sư này có giới không thanh tịnh, lại
tự nghĩ rằng: "ta có giới thanh tịnh. Giới của ta thanh tịnh, trong sáng,
không uế nhiễm". Nếu ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo sư sẽ
không bằng lòng. Và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế
nào mới được".
Và vị ấy nhận
được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những
gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy.
Như vậy, này
Moggallāna, các đệ tử che chở giới cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư
như vậy chờ đợi các đệ tử che chở về giới cho mình.
3. Lại nữa,
này Moggallāna ở đây có bậc Ðạo sư mạng sống không thanh tịnh, lại
tự cho rằng: "Ta có mạng sống thanh tịnh. Mạng sống của ta thanh tịnh chói
sáng, không có uế nhiễm".
Nhưng các đệ
tử biết về vị ấy như sau: "Vị Tôn giả Ðạo sư này có mạng sống không thanh
tịnh, lại tự nghĩ rằng: "Ta có mạng sống thanh tịnh. Mạng sống của ta
thanh tịnh, trong sáng, không uế nhiễm". Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết
như vậy, thời vị Ðạo sư ấy không bằng lòng, và nếu vị ấy không bằng lòng thời
chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được".
Và vị ấy nhận
được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy.
Như vậy, này
Moggallāna, các đệ tử che chở mạng sống cho bậc Ðạo sư và bậc
Ðạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở mạng sống cho mình.
4. Lại nữa,
này Moggallāna, ở đây có bậc Ðạo sư thuyết pháp không thanh tịnh, lại
tự cho rằng: "Ta thuyết pháp thanh tịnh. Thuyết pháp của ta thanh tịnh,
chói sáng, không có uế nhiễm".
Nhưng các đệ
tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Ðạo sư này thuyết giảng không thanh tịnh,
lại tự nghĩ rằng: "Ta thuyết pháp thanh tịnh. Thuyết pháp của ta thanh tịnh,
trong sáng, không uế nhiễm". Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy,
thời vị đạo sư sẽ không bằng lòng. Và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta
sẽ xử sự như thế nào mới được".
Và vị ấy nhận
được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy.
Như vậy, này
Moggallāna, các đệ tử phòng hộ sự thuyết pháp cho bậc Ðạo sư,
và bậc Ðạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở thuyết pháp cho mình.
5. Lại nữa,
này Moggallāna, ở đây có bậc Ðạo sư trả lời không thanh tịnh, lại tự
cho rằng: "Ta trả lời thanh tịnh. Trả lời của ta thanh tịnh, chói sáng,
không có uế nhiễm".
Nhưng các đệ
tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Ðạo sư này trả lời không thanh tịnh, lại
nghĩ rằng: "Ta trả lời thanh tịnh. Trả lời của ta thanh tịnh, chói sáng,
không uế nhiễm". Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo
sư sẽ không bằng lòng và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như
thế nào mới được".
Và vị ấy nhận
được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy.
Như vậy, này
Moggallāna, các đệ tử che chở trả lời cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo
sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở trả lời cho mình.
6. Lại nữa,
này Moggallāna, ở đây có bậc Ðạo sư tri kiến không thanh tịnh, lại
tự cho rằng: "Ta có tri kiến thanh tịnh. Tri kiến của ta thanh tịnh, chói
sáng, không có uế nhiễm".
Nhưng các đệ
tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Ðạo sư này tri kiến không thanh tịnh, lại
tự nghĩ rằng: "Ta có tri kiến thanh tịnh. Tri kiến của ta thanh tịnh,
trong sáng, không có uế nhiễm". Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy,
thời vị Ðạo sư sẽ không bằng lòng và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ
xử sự như thế nào mới được".
Và vị ấy nhận
được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy.
Như vậy, này
Moggallāna, các đệ tử che chở trả lời cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư như vậy chờ
đợi các đệ tử che chở tri kiến cho mình.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét