101-CON NGỰA THÀNH TROY/ 21
7. Này
Moggallāna, Ta có giới thanh tịnh, và Ta tự biết: "Giới của Ta thanh tịnh,
trong sáng, không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về giới, và
Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về giới.
Mạng sống của
Ta thanh tịnh. Ta tự rõ biết: "Mạng sống của Ta thanh tịnh, trong sáng,
không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về mạng sống, và Ta
không có chờ đợi các đệ tử che chở cho Ta về mạng sống.
Thuyết pháp
của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ
biết: "Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm".
Các đệ tử không có che chở Ta về thuyết pháp và Ta không có chờ đợi các đệ tử
che chở Ta về thuyết pháp.
Các câu trả
lời của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Các câu trả lời của Ta thanh tịnh,
trong sáng, không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về các câu
trả lời, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về các câu trả lời.
Tri kiến của
Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Tri kiến của Ta thanh tịnh, trong sáng,
không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về tri kiến, và Ta không
có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về tri kiến.”
{ Ghi
chú của Nhị Tạng Vương:
Theo bài Kinh ‘Kakudha’ ở trên, ngay tại Kosambi,
Devadatta đã có tham vọng muốn lãnh đạo chúng Tăng. Tất nhiên Devadatta
không thể thực hiện được tham vọng này một khi Đức Thế Tôn còn hiện
tiền. Do vậy ông ta phải tìm cách phân hóa chúng Tăng, lôi kéo các
Tỳ-kheo cả tin theo về phe mình nhằm thành lập một giáo đoàn mới.
Muốn vậy, Devadatta cũng phải có tà pháp riêng, tà luật riêng nhằm
dụ dỗ những Tỳ-kheo ngây thơ.
Thế nhưng ngay sau đó các Tỳ-kheo đi theo Devadatta
đã thấy rõ dã tâm của Devadatta và trở về với Tăng đoàn. Devadatta
đã phải hộc máu nóng vì thất bại trước tham vọng của mình. Sau đó
Devadatta còn phải đọa vào địa ngục vô gián vì các ác tội của mình,
trong đó có tội phá hoà hợp Tăng. Devadatta là bài học đắt giá cho
những ai tin theo các tổ sư gốc Bà-la-môn, còn muốn phân hóa Phật
Giáo thành lắm tông nhiều phái theo kiểu ‘đa phương, đa diện’.
卐
] Bài
kinh “Tôn Giả Ānanda”, số 106, Tăng Chi 2, Chương 5, XI. Phẩm An Ổn Trú
“1. Một thời,
Thế Tôn ở Kosambī, tại khu vườn Ghosita.
Rồi Tôn giả
Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
- Cho đến như
thế nào, bạch Thế Tôn, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Này
Ānanda, khi nào vị Tỷ-kheo tự mình đầy đủ Giới và không làm phiền hà
người khác với Tăng Thượng Giới. Cho đến như vậy, này Ānanda, chúng Tỷ-kheo
Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế
Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Có thể có,
này Ānanda!
Thế Tôn nói:
- Này
Ānanda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng
thượng giới, tự quán sát mình không quán sát người khác. Cho đến
như vậy, này Ānanda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế
Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Có thể có,
này Ānanda!
Thế Tôn nói:
- Này
Ānanda, khi nào vị Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với
tăng thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở
thành có danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng.
Cho đến như vậy, này Ānanda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế
Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Có thể có,
này Ānanda!
Thế Tôn nói:
- Này
Ānanda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng
thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở thành có
danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng, đối
với Bốn Thiền, thuộc Tăng Thượng Tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không
khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Cho đến như
vậy, này Ānanda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế Tôn,
có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Có thể có,
này Ānanda!
Thế Tôn nói:
- Này
Ānanda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng
thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở thành có
danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng, đối với Bốn
Thiền, thuộc Tăng Thượng Tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng
được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị
ấy tự mình với thắng trí ngay trong hiện tại chứng đạt và an trú Vô lậu Tâm giải
thoát, Tuệ giải thoát. Cho đến như vậy, này Ānanda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống
an ổn trú.
Ngoài các an
ổn trú này, này Ānanda, Ta tuyên bố không có một an ổn trú nào khác cao thượng
hơn, thù diệu hơn.”
{ Ghi
chú của Nhị Tạng Vương:
Hỡi những người đang nghĩ mình là con của Phật,
đang nghĩ mình tu theo Pháp của Phật:
- Các vị có tự xét thấy mình có đầy đủ Giới
chưa? Có biết thế nào là Tăng Thượng Giới không? Nếu các vị chưa
tròn đủ Giới, chưa hiểu biết Tăng Thượng Giới; các vị đừng hỏi tại
sao mình và hội chúng chùa mình không được an ổn trú, cứ hết chuyện
này đến chuyện nọ.
Các vị cũng khoan vội tin ngay những ai đang đăng
đàn thuyết Pháp nói rằng Phật đã thuyết như thế này, họ đã chứng
được như thế kia. Vì sao? Vì Giới chưa thanh tịnh, tâm chưa thanh tịnh.
Tâm chưa thanh tịnh, tri kiến chưa thanh tịnh. Tri kiến chưa thanh tịnh,
đoạn nghi chưa thanh tịnh. Đoạn nghi chưa thanh tịnh, chưa thể thấy rõ
đâu là Đạo, đâu là tà đạo; cho nên dễ bị dụ dỗ, bị hướng dẫn sai
lạc.
Do vậy các vị hãy bắt đầu từ Giới hạnh, và
nương theo đúng Chánh Kinh Phật dạy để từng bước đạt được an ổn trú.
- Các vị có tự quán sát mình và không quán sát
người khác không? Nếu các vị không quán sát mình, chỉ quán sát
người; các vị và hội chúng của mình sẽ dễ rơi vào hơn thua cãi cọ,
sẽ không được an ổn trú.
- Các vị có bực phiền vì không được nổi tiếng
không? Nếu có, các vị đã bị thói háo danh chi phối, khó mà an ổn
trú.
- Các vị có biết Bốn Thiền là gì không? Vì sao
Đức Phật gọi ‘Bốn Thiền’ là thuộc ‘Tăng Thượng Tâm, hiện tại lạc
trú’? Các vị không biết và tu theo đây làm sao an ổn trú ngay trong
hiện tại được?
- Các vị có biết thế nào là ‘Vô lậu Tâm giải thoát’? Thế nào là ‘Vô lậu Tuệ giải thoát’?
Chúng khác nhau thế nào? Các vị không biết những điều này làm sao
giải thoát ngay trong hiện tại?
Các kiến thức mà các vị đang tin là ‘Phật học’
nó xuất hiện lúc nào? Do ai khởi xướng? Nó có thực sự giúp các vị
và hội chúng của mình an ổn trú không hay đơn thuần chỉ là sự ru
ngủ của những giáo lý mơ hồ, những hứa hẹn chung chung ảo tưởng?
Các vị hãy mau tỉnh ngộ kẻo không còn kịp cứu
lấy mình.
] Bài
kinh “Pārileyya” (Tạp 2, Ðại 2,13c) (S.iii,94)
“1) Một
thời Thế Tôn ở Kosambī, tại vườn Ghosita.
2) Rồi Thế
Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Kosambī để khất thực. Khất thực
xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, Ngài dọn dẹp chỗ nằm của
mình, cầm y bát, không gọi thị giả, không tin cho chúng Tăng biết, một mình, không
có người đi theo, ra đi du hành.
3) Rồi một Tỷ-kheo,
khi Thế Tôn đi chưa bao lâu, liền đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, nói với
Tôn giả Ānanda:
-- Này Hiền
giả Ānanda, Thế Tôn tự sắp xếp sàng tọa của mình, cầm y bát, không gọi thị giả,
không tin cho chúng Tăng biết, một mình, không có người đi theo, ra đi du hành.
4) -- Này Hiền
giả, trong khi Thế Tôn tự sắp xếp sàng tọa của mình, cầm y bát, không gọi thị
giả, không tin cho chúng Tăng biết, một mình, không có người đi theo, ra đi du
hành; trong khi ấy, Thế Tôn ưa sống một mình; trong khi ấy, Thế Tôn không muốn
ai đi theo Ngài.
5) Rồi Thế
Tôn tuần tự du hành, đi đến Pārileyyaka. Tại đây, Thế Tôn trú ở Pārileyyaka, dưới
gốc cây bhaddasāla.
6) Rồi nhiều
Tỷ-kheo đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ānanda những lời
chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi
xuống một bên.
7) Ngồi xuống
một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Ānanda:
-- Ðã lâu lắm,
này Hiền giả Ānanda, chúng tôi chưa được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp.
Chúng tôi muốn, này Hiền giả Ānanda, được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp.
8) Rồi Tôn
giả Ānanda cùng với các Tỷ-kheo ấy đi đến Pārileyyaka, gốc cây bhaddasāla, chỗ
Thế Tôn ở; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
9) Rồi Thế
Tôn thuyết pháp cho các Tỷ-kheo ấy, giảng giải, khích lệ, làm cho phấn khởi,
làm cho hoan hỷ.
10) Lúc bấy
giờ, một Tỷ-kheo sanh khởi suy nghĩ như sau: "Biết như thế nào, thấy
như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?"
11) Thế Tôn
với tâm của mình biết được suy nghĩ của Tỷ-kheo ấy, liền nói với các Tỷ-kheo:
-- Này
các Tỷ-kheo, pháp đã được giải thích, thuyết giảng. Bốn Niệm Xứ đã
được giải thích, thuyết giảng. Bốn Chánh Cần đã được giải
thích, thuyết giảng. Bốn Như Ý Túc đã được giải thích, thuyết
giảng. Năm Căn đã được giải thích, thuyết giảng. Năm lực đã
được giải thích, thuyết giảng. Bảy Bồ-Đề Phần đã được giải
thích, thuyết giảng. Thánh Đạo Tám Ngành đã được giải thích,
thuyết giảng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, pháp được Ta giải thích, thuyết giảng.
12) Dầu cho,
này các Tỷ-kheo, các pháp được Ta giải thích, thuyết giảng như vậy, nhưng ở đây
có Tỷ-kheo khởi lên suy nghĩ sau đây: "Biết như thế nào, thấy như thế nào,
các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?"
13-16) Này
các Tỷ-kheo, biết như thế nào, thấy như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập
tức?
Ở đây, này
các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục
pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân
Nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân Nhân, không tu tập pháp các bậc Chân
Nhân, quán sắc như là tự ngã, sự quán như vầy là hành.
Hành ấy lấy
gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì sanh, lấy gì làm hiện hữu?
Ðối với kẻ
vô văn phàm phu, này các Tỷ-kheo, cảm xúc bởi thọ sanh ra
do xúc chạm với vô minh, khát ái sanh. Từ
khát ái ấy, hành ấy sanh.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét