94-CON NGỰA THÀNH TROY/ 14
12) Vi Diệu
Pháp hay Duy thức Bà-la-môn?
Qua hàng thế
kỷ, luận Vi Diệu Pháp cũng như Duy Thức học của các luận sư đã được không ít
các tu sĩ Phật giáo, cả Bắc Tông lẫn Nam Tông, xem là pháp... vi diệu, là duy
trí thức. Thế nhưng, dù có tìm suốt bảy kiếp cũng không thể chứng minh được các
kiến thức ấy giúp con người diệt khổ cụ thể như thế nào.
Cả một mớ
các khái niệm được phân tích theo kiểu “chẻ sợi tóc làm tư, chia cây tăm làm
tám” ấy đã được nhiều người thay nhau thuyết giảng, viết lách qua hàng bao thế
hệ. Từ vị trưởng lão thâm niên cho đến chú sadi mới nhập đạo, tất cả đều biết
tán tụng chú giải dạy như thế này, luận giải nói như thế kia, trong khi chính bản
thân họ cũng không biết chú giải nào giúp diệt tham, diệt sân, diệt si một cách
thiết thực hiện tại.
Thậm chí,
như đã nói ở trên, họ còn bắt chước các luận sư gián điệp xem thường những lời
dạy đích thực của chính Đức Thế Tôn trong kinh điển là thường pháp, là tục đế,
không phải chân nghĩa đế; và chỉ có tạng Luận của các ông học trò của Phật mới
là siêu thế, là vi diệu, là cao siêu hơn cả Kinh và Luật của Phật (?)
Xét cho
cùng, những Tỳ-kheo tin vào Phật Âm có hơn gì các tu sĩ không “nguyên thủy”
khác. Họ cũng nhắm mắt chạy theo những luận giải của các tổ sư gốc Bà-la-môn của
mình. Họ cũng đã không còn lưu tâm nghiên cứu, học tập, thọ trì cẩn thận chánh
kinh của Phật để rồi phải trở thành những kẻ “mù kinh điển gốc”.
Họ cũng đã
vô tình ôm giữ chặt một góc con voi Bà-la-môn cho mình mà cứ tưởng đó là con sư
tử Phật Pháp. Trong đó, đã có những kẻ rờ rẫm được phần đuôi voi, hăm hở chia
chẻ mớ lông đuôi voi một cách sành sõi để rồi lớn tiếng khoe khoang với nhau về
hàng trăm, hàng ngàn “sợi lông” tâm sở, tâm vương, tâm siêu thế, tâm đáo đại...
Đối với nhiều
người, Phật Pháp giờ đây bao gồm một mớ đầy ắp những khái niệm “tâm lý cao siêu
vi diệu” chẳng khác nào như một... cái chổi chà được bó kết tinh vi. Thế nhưng,
cái chổi chà còn dùng để quét nhà, chứ “mớ lông đuôi voi” của các luận sư
Bà-la-môn đã chẳng giúp được gì cho ai trong việc diệt tham, diệt sân, diệt si,
tránh khổ, thoát khổ. Có chăng cũng chỉ là những ảo tưởng mù quáng, những ngụy
biện thiếu trung thực, những luận giải quanh co xuất phát từ những tư tưởng cố
chấp bảo thủ cho “truyền thống” và “tổ sư” của mình mà thôi.
Chính Đức Thế
Tôn đã dạy “Pháp thiết thực hiện tại, không có thời gian”, vì thế những ai đã
chứng ngộ được pháp siêu lý của các luận sư hãy lên tiếng chứng minh cụ thể: Vi
Diệu Pháp hay Duy Thức học của các luận sư thiết thực hiện tại như thế nào?
Chúng không có thời gian như thế nào? Hay ngược lại, họ phải mất hàng năm trời mới học thuộc
lòng cả một mớ các khái niệm mơ hồ, trong khi tham-sân-si, mạn, kiến, nghi… vẫn
còn đầy ắp?
Lại nữa, nếu
Luận Vi Diệu Pháp thực sự trí tuệ, hẳn nó phải gắn liền cột chặt với
Thánh Giới Luật, người dạy Vi Diệu Pháp phải gương mẫu về giới hạnh. Chính Đức
Thế Tôn đã xác chứng cho Bà-la-môn Sonadanda: “- Thật
như vậy, này Bà-la-môn. Này Bà-la-môn, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh,
giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí
tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có
trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem
là tối thắng ở trên đời...” (Kinh Sonadanda, số 4, DN1)
Theo lời dạy
trên, trí tuệ và giới hạnh phải song hành như hai chân của cơ thể người. Nếu thực
sự luận Vi Diệu Pháp của các Luận sư có trí tuệ vi diệu, hẳn nó phải giúp những
người thọ trì có giới hạnh vi diệu. Thế nhưng, mọi người hãy quán sát kỹ các luận
sư Vi Diệu Pháp, hay đọc lại các sách luận của họ để biết giới hạnh có được lưu
ý như thế nào?
Nếu luận Vi Diệu Pháp cao siêu đến độ không cần giới hạnh, thời một kẻ tiểu nhân lừa đảo cũng có
thể dạy “pháp vi
diệu” được, cần gì các luận sư? “Trí tuệ cao siêu” mà không có giới hạnh
đi kèm, thực chất nó chỉ là tà tuệ hoặc ác tuệ mà thôi! Do vậy, mọi người
hãy quan sát kỹ giới hạnh của các vị dạy Vi Diệu Pháp, và nghiên cứu sách của họ
sẽ tự hiểu chúng có chánh trí tuệ hay tà trí tuệ.
Đã có một
ngôi chùa hàng đầu về luận Vi Diệu Pháp, nhưng nó cũng hàng đầu về khói thuốc lá nhiều
hơn khói nhang. Chùa có mười tu sĩ, hết chín vị nghiện thuốc lá nặng. Vị trụ
trì nổi tiếng được nhiều người biết đến với mấy chục năm thuyết giảng, viết nhiều
sách về Vi Diệu Pháp, cùng tật nghiện hút thuốc lá. Các đệ tử của ngài hằng
ngày bên cạnh ly cà phê, điếu thuốc lá, họ thường tranh cãi với nhau về “pháp vi
diệu” đến độ không ít lần đòi đánh nhau. Vị quản chúng thường xuyên tiếp phụ nữ
trong phòng riêng, lúc Tăng xá không có ai, mỗi tuần vắng chùa một đêm. Tất cả
đều vô tư, vô Tàm, vô Quý!
Hội chúng đó
không có ai biết tự hỏi: nếu Vi Diệu Pháp thật sự cao siêu vi diệu, tại sao nó
không giúp các vị vượt được qua một điếu thuốc lácỏn con, không giúp họ thấy hổ thẹn khi vi phạm giới hạnh? Một điếu thuốc lá nhỏ
nhoi còn không thắng
nổi, thử hỏi “pháp vi diệu” còn có lợi ích gì cho ai? Nó cao siêu vi diệu ở chỗ
nào? Ngoài đời nhiều kẻ
phàm phu còn chiến thắng được thuốc lá, một tu sĩ theo đạo ly dục, diệt dục lại
không thắng được, thử hỏi những cám dỗ dục ái nguy hiểm khác làm sao vượt thắng
được? làm sao thanh tịnh được giới hạnh? Các vị còn mong gương mẫu với ai, dạy
đạo cho ai? Những người có trí tuệ, có đức hạnh có dám tin vào những “Vi diệu tử”
kiểu ấy?
Đã có một
“Vi diệu tử” gân cổ bảo vệ cho câu chuyện “Vi Diệu Pháp từ trên trời” rằng ở Ấn
Độ vẫn còn hai dấu tích chân thang in trên đá khi Đức Phật từ cung trời Đao Lợi
trở xuống thế gian. Trời ạ! Thế gian cũng có nhiều những đầm “Tiên”, ao
“Thánh”, dấu “bàn tay”, “bàn chân” của người khổng lồ cùng những câu chuyện
truyền thuyết mê li do thế gian tưởng tượng. Vả lại, vàng với kim cương người
ta còn giả được, vậy mà giữa thời đại @ này vẫn có người còn tin vào ba dấu tích bá vơ thiên địa!
Vị “Vi diệu
tử” ấy vẫn hàng ngày ngồi dịch sách với đầy dẫy lỗi chính tả, ngữ pháp, bên cạnh
ly cà-phê, điếu thuốc lá, miệng nhóp nhép ăn vặt. Không ít lần người
ta lại thấy vị ấy ngồi thích thú đếm tiền từ “Bát hội, Trai Tăng” hoặc từ việc tụng đám ma,
đám giỗ. Một nghiệp căn như vậy có ca ngợi và bảo vệ cho luận Vi Diệu Pháp từ
trên trời của các luận sư, âu cũng không có gì khó hiểu!
Đến đây,
cũng cần nói rõ thêm cho các “Vi diệu tử” được biết, trong nhiều bài kinh
Nikāya, điển hình như bài kinh Nghĩ Như Thế Nào (số 103, Trung Bộ 3), Đức Phật
đã dùng khái niệm “Abhidhamma” (Thắng pháp, A-tỳ-đàm) để gọi
chung các hệ thống Bốn Như Ý Túc, Bốn Chánh Cần, Bốn Niệm Xứ, Năm Căn,
Năm Lực, Bảy Giác Chi và Tám Chánh Đạo.
Còn các vị
Thánh Tăng A La Hán đương thời Đức Phật, với giới hạnh thanh tịnh, với tri kiến
thanh tịnh và có trí tuệ siêu phàm đều nhận thức, thọ trì và giáo giới theo Hệ
thống 37 Phẩm Trợ Đạo này. Bởi lẽ“Abhidhamma” mới thực sự là thắng pháp cao
siêu vi diệu hơn hẳn các pháp thế tục khác.
Chính vì thế,
trong bài kinh Thanh Tịnh, số 29, Trường Bộ 2, Đức Thế Tôn đã căn dặn nhiều lần: “Này
Cunda, thế nào là những pháp do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất
cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so
sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn
tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho
muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và
cho loài Người?
Những
pháp ấy là Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Căn, Năm Lực,
Bảy Giác Chi, Tám Thánh Đạo.
Này
Cunda, những pháp ấy do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả Ngươi
hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các
nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được
an trú lâu dài, vì hạnh phúc của muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người”.
Một tu sĩ
khi đã hiểu rõ hệ thống chánh pháp hơn hẳn này cũng sẽ xác tín một cách chắc chắn
rằng không thể có một pháp luận nào, của bất cứ một Tổ sư nào, lại có thể cao
hơn hệ thống pháp môn này của Đức Thích Ca Mâu Ni. Nếu có chăng, đó chính là do
các tu sĩ đã không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nên không có trí tuệ để hiểu
rõ Thắng Pháp gồm 37 Phẩm Trợ Đạo này thực sự là những pháp cao siêu như thế
nào. Chính vì không có trí tuệ và giới hạnh, nên cả tín tin luôn những kẻ ác hiểm
đời sau, dễ tin luôn chuyện vi Diệu Pháp từ trên trời rơi xuống của họ (?)
Đến đây hãy
nêu vài câu hỏi để mỗi người tự kiểm chứng. Trong bài kinh Pháp Môn (S.v,108),
Đức Phật khi nghe các Tỳ-kheo phàn nàn về việc các ngoại đạo sư ăn cắp pháp, họ
cũng dạy năm triền cái, cũng nói đến Bảy Giác Chi, Ngài đã dạy như sau:
“-- Ðược
nói vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải trả lời với các du sĩ ngoại đạo như
sau: "Này chư Hiền, có pháp môn nào, do pháp môn ấy, năm triền
cái được trở thành mười, Bảy Giác Chi được trở thành mười bốn?"
Ðược đáp như vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo sẽ không thể cắt nghĩa
được, sẽ rơi vào khó khăn. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, vấn đề
này vượt ngoài giới vức của họ. Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một ai ở Thiên
giới, thế giới này, ở Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người có thể làm thỏa mãn tâm với câu trả lời cho
những câu hỏi này, ngoại trừ Như Lai, hay đệ tử Như Lai, hay những ai được nghe
từ hai vị ấy.”
Cũng vậy, những
ai cho tạng Luận Vi Diệu Pháp là cao siêu vi diệu nhất, là chánh Phật Pháp, các
luận sư là con chánh tông của Phật Thích Ca Mâu Ni, đương nhiên họ cũng thừa
cao siêu để trả lời thấu đáo các câu hỏi sau đây:
- Thế nào là
“năm triền cái được trở thành mười”?
- Thế nào là
“Bảy Giác Chi được trở thành mười bốn”?
- Thế nào là
Bốn Niệm Xứ viên mãn dẫn đến Bảy Giác Chi viên mãn? Bảy Giác Chi viên mãn dẫn đến
Minh và Giải thoát? (Kinh Kundaliya, S.v.73)
Tất nhiên,
trong bài kinh Pháp Môn, Đức Thế Tôn cũng dạy cách quán nội ngoại pháp năm triền
cái và Bảy Giác Chi, nhưng để phân định chánh tuệ hay tà tuệ, chánh pháp hay tà
pháp, vi diệu hay vi dỏm, các “vi diệu tử” hãy vận dụng trí tuệ vi Diệu Pháp trả
lời thêm các câu hỏi thiết thực sau đây:
- Thế nào là
nội dục tham? Ngoại dục tham? Nội sân? Ngoại sân? Nội hôn trầm - thụy miên? Ngoại
hôn trầm - thụy miên? Nội trạo hối? Ngoại trạo hối? Nội nghi? Ngoại nghi? Giỏi
luận Vi Diệu Pháp nhưng không rõ biết năm pháp làm muội lược trí tuệ, liệu những
kiến thức về luận Vi Diệu Pháp có giúp trí tuệ được thanh tịnh? Phạm hạnh được
tròn đủ để từng bước đi tới giải thoát?
- Thế nào là
nội Niệm giác chi? Ngoại Niệm giác chi? Thế nào là Trạch pháp giác chi theo nội pháp? Trạch
pháp giác chi theo ngoại pháp? Thế nào là thân tinh tấn? tâm tinh tấn? Thế nào
là Hỷ có tầm có tứ? Hỷ không tầm, không tứ? Thế nào là thân khinh an? Tâm khinh
an? Thế nào là định có tầm có tứ? Định không tầm không tứ? Thế nào là Xả giác
chi theo nội pháp? Xả giác chi theo ngoại pháp? Vì sao Đức Phật dạy vào đầu
đêm, cuối đêm các Tỳ-kheo tu tập Tăng Thượng Tâm phải tu tập các Giác Chi? Tu tập
như thế nào? Vì sao các Giác Chi này dẫn đến Minh và Giải thoát? Một hệ thống
như vậy có phải là thường pháp, là tục đế, không phải chân nghĩa đế?
Mang danh là
đệ tử Phật nhưng không thấy rõ chân pháp, không thấy rõ sự vi diệu của Thắng
Pháp - 37 Phẩm Trợ Đạo, đương nhiên phải rơi vào tà pháp, mắc phải cạm bẫy hý
luận của các luận sư ngoại học. Các “cùng tử” cũng sẽ như các ngoại học ăn cắp
pháp của Phật, cũng không thể cắt nghĩa được chánh Phật Pháp, cũng sẽ rơi vào
khó khăn bế tắc. Vì sao như vậy?
Vì Thắng
Pháp - Abhidhamma - 37 Phẩm Trợ Đạo vượt ngoài tầm vức của các vị.
Các vị chỉ thừa tự y áo, thừa tự tên gọi, thừa tự pháp giả pháp dỏm chứ không
thừa tự chánh Pháp của Phật, chỉ là những người con ngây thơ đeo mang những tư
tưởng phản bội, tự đốt nhà mình mà không biết.
Đến đây,
cũng phải nhắc nhở thêm cho các tín đồ “Vi Diệu Pháp” và “Duy Thức tông” được
biết: trong Tăng Chi 4, chương 10, bài kinh Ajita, số 116 còn ghi rõ, ngay
trong thời Đức Phật đã có du sĩ ngoại đạo Ajita đến giữa Đức Phật và chúng Tăng
khoe khoang rằng người bạn của ông ta biết đến năm trăm tâm xứ.
Đức Thế Tôn
đã không thèm quan tâm trả lời, Ngài chỉ quay sang hỏi các Tỳ-kheo: “-
Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thọ trì những căn bản địa của bậc Hiền trí không?”
Các luận gia
sành sõi Vi Diệu Pháp và Duy Thức học có biết hàng trăm tâm xứ “tâm lý cao
siêu” của mình khác hay giống với năm trăm tâm xứ của các ông Bà-la-môn như thế
nào không?
Và dù chúng
có giống hay khác chăng nữa, tại sao Đức Phật không thèm trả lời Ajita mà lại hỏi
các Tỳ-kheo về “căn bản địa của bậc Hiền trí”?
Nếu các tông
đồ Luận tạng dù có căn cứ vào những kiến thức cao siêu của Vi Diệu Pháp và Duy Thức
học vẫn không trả lời được các câu hỏi trên, họ cần đọc kỹ lại bài kinh này để
thấy những điều tiên tri, răn dạy của Bậc Chánh Biến Tri đã xẩy ra hoàn toàn
đúng như thực.
Thật vậy,
các tín đồ Luận tạng cũng đã bị các luận sư gốc Bà-la-môn, con cháu của người bạn
Ajita, đem năm trăm tâm xứ của họ ra “hù dọa”, lòe bịp, kích thích, kích động đến
độ phải nức nở lớn tiếng khen ngợi các Tổ sư, Luận sư của mình: "Vị
Tôn giả thật là một Hiền trí! Vị Tôn giả thật là một Hiền trí!", Phật
Âm quả thật là một thánh tăng! Long Thọ quả thật là một Bồ-tát v.v… và v.v…
Các tín đồ
Luận tạng và Duy Thức học cũng đã trở thành một thành viên của hội chúng phi
pháp khi không còn biết phân biệt đâu là Pháp, đâu là phi pháp; đâu là mục
đích, đâu là phi mục đích.
Phi pháp ấy
là gì? Phi mục đích ấy là gì?
Rõ ràng cái
“Diệu Pháp duy trí thức” mà họ đang ca ngợi, cho dù biết được năm trăm tâm xứ
hay năm triệu tâm xứ hay vô lượng tâm xứ chăng nữa, nhưng có tâm xứ nào chỉ dạy
cách diệt tận tham-sân-si, đoạn trừ năm triền cái, cắt tận các kiết sử để thoát
khổ một cách cụ thể thiết thực hiện tại không?
Có “Duy Thức
vi diệu” nào dạy cho họ biết cách ly dục để ly khổ?
Làm thế nào
diệt dục để diệt khổ? Và nếu không làm được như vậy thời chúng có lợi ích gì
cho ai?
Và điều phi
mục đích ấy liệu có đáng để cho một người có trí tuệ mất công tìm hiểu thọ trì?
Với những điều
phi pháp, phi mục đích và không biết dựa trên căn bản của một bậc Hiền trí như
vậy, những bậc thiện tri thức có cần phải quan tâm, đàm đạo, học hỏi hay không?
Vị hiền trí
nào hiểu được những điều này tất cũng hiểu được lý do vì sao Đức Thế Tôn đã
không thèm trả lời du sĩ ngoại đạo Ajita, dù chỉ một từ.
Có thể nào một
bậc Thế Gian Giải đã biết như vậy, thấy như vậy, dạy như vậy lại phải “mượn”
năm trăm tâm xứ của một ông Bà-la-môn đem lên cung trời Đao Lợi thuyết giảng
cho mẹ Ngài, để rồi sau đó tạo cơ hội cho các ông luận sư đem “bình cũ rượu mới”
vào trong Đạo Phật?
Rõ ràng chỉ
có những đầu óc đầy ắp tưởng tri ấu trĩ mới có thể nghĩ và tin những điều nhảm
nhí như vậy.
Bởi lẽ, chỉ
có cách dựng nên câu chuyện hoang đường từ trên hư không như vậy, các tổ sư gốc
Bà-la-môn mới có thể dùng chính bình thuốc “Pháp Vi Diệu” của Đức Phật để đổ
vào đó thứ rượu mới với “năm trăm tâm xứ” của họ, nhằm làm say sưa các Tỳ-kheo
“duy trí thức” và duy tà tín tin theo mình, bắt các vị con Phật nằm mê man
trong cái-giỏ-luận-tạng của các “ngài”.
Có thế mới
khiến cho các đệ tử Phật quay lưng với những lời dạy đích thực của Đấng Chánh Đẳng
Giác, xa rời chính những giáo pháp thiết thực của Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.
Các luận sư
Bà-la-môn bắt buộc phải làm như vậy, bởi lẽ chỉ có chính những “con trùng”
trong lông sư tử mới có thể hủy hoại được “thịt sư tử”. Cho nên, một khi các luận
sư ngoại học quyết tâm phá hoại Đạo Phật, đối với họ việc trở thành những “con
trùng sư tử” không có gì khó khăn, và từ đó tạo ra các “con trùng tín ẩu” cũng
dễ như trở bàn tay!
Mong rằng
các đệ tử Phật hãy ý thức rõ điều này để không vội tin tưởng một chiều vào các
luận giải, chú giải cùng với những câu chuyện dễ duôi nhưng thâm độc của các
ông luận sư Bà-la-môn gián điệp nằm vùng nguy hiểm.
Có như vậy
các vị mới thoát khỏi cái mê hồn trận siêu hình tưởng vớ vẩn, mới không rơi vào
hắc pháp, không quay lưng với chánh Kinh – chánh Luật, không xa rời những lời dạy
vô giá của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét