95-CON NGỰA THÀNH TROY/ 15
13) Luận
tạng - “Con ngựa thành Troy” trong Theravada
Có thể ví
các chú giải của Bà-la-môn Phật Âm và tạng Luận - Vi Diệu Pháp như một kiểu “Con
ngựa thành Troy” trong Phật giáo Nam Tông.
Thật vậy, một
khi các Tỳ-kheo nào đã mất cảnh giác, không còn dựa trên căn bản địa của một bậc
Hiền trí, một chiều tin tưởng và chấp nhận tạng Luận với hàng trăm tâm xứ; như
vậy là họ đã tự mở rộng cửa, kéo đưa “con ngựa gỗ” chết người vào trong thành
trì của mình.
Và khi họ
tin rằng năm trăm tâm sở, tâm vương, tâm đáo đại, tâm hiệp thế… trong Vi Diệu
Pháp mới thật sự cao siêu vi diệu, còn lời Phật trong kinh gốc chỉ là tục đế,
là thường pháp, điều này có nghĩa chính họ đã vô tư để cho năm-trăm-chiến-binh-sát-thủ
từ trong bụng con ngựa gỗ thoải mái lao ra kết liễu sinh mạng tu tập theo đúng
chánh đạo của họ.
Đáng buồn
hơn, trong khi nhân dân thành Troy trước khi chết đã kịp nhận ra âm mưu thâm độc
của kẻ thù và không phải vì thế mà họ bị đọa vào địa ngục; ngược lại những ai
tin tưởng Phật Âm Bà-la-môn và con ngựa tạng Luận của các luận sư gián điệp,
cho đến tận khi lâm chung vẫn còn ngây thơ thích thú vinh danh tà kiến cùng tổ
sư của mình. Hẳn nhiên họ có thể quên lời dạy của Phật, vui mừng ôm lấy ảo tưởng
cho chính mình, nhưng địa ngục không bao giờ quên và nhận lầm những kẻ ôm giữ
tà kiến như họ.
Trong chánh
Kinh – chánh Luật đã có rất nhiều những lời cảnh giác về thủ đoạn gián điệp của
những kẻ ngoại học ngay khi Đức Phật còn tại tiền, như trường hợp của sa môn giả
hiệu Migalandika, nhóm Lục sư ngoại đạo (tạng Luật), Bà-la-môn Uttara “trong
bảy tháng theo sát Thế Tôn như bóng không bao giờ rời hình” Kinh
Brahmāyu, Trung bộ 3), hay như du sĩ ngoại đạo Potaliputta, các Bà-la-môn
Sonakāyana, Sanjaya, Vassakāra…
Họ đều là những
kẻ ngoại học thâm hiểm cũng biết giả danh Phật để lừa gạt đệ tử Phật, cũng biết
xuyên tạc những lời của Phật để tuyên truyền tà thuyết. Lịch sử thường lập lại
và sự phá hoại Đạo Phật thì thời nào cũng có.
Vì vậy, ghi
nhớ những bài học lịch sử trong kinh điển sẽ không bao giờ thừa!
Chính vì thế,
chỉ có những ai biết trân trọng ghi nhớ những lời dạy đích thực của Đức Thích
Ca Mâu Ni trong kinh tạng Pāli và biết thận trọng đem so sánh, đối chiếu chúng
với những luận giải của Phật Âm Bà-la-môn, họ mới có thể phát giác những thâm ý
độc hại của “ngài” Buddhaghosa, kẻ khét tiếng trong việc chống các phái ly giáo
khỏi Bà-la-môn giáo.
Bên cạnh đó,
về phần mình, các tu sĩ Phật giáo phải ý thức rõ ràng về những sợ hãi đã được Đức
Thế Tôn tiên tri trong chánh kinh Nikāya. Họ phải tích cực tu tập về thân,
về giới, về tâm, về tuệ, có vậy mới mong đoạn
tận các Pháp ô nhiễm, các Luật ô nhiễm do các luận giải ngụy trá đã sanh khởi
ngay trong chính truyền thống được mệnh danh là “Nguyên thủy Theravada” của
mình.
Đức Chánh Biến
Tri đã khuyến cáo: “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ
có những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không
tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập.
Do thân không
tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không
tu tập, khi họ thuyết về Thắng pháp hay về Quảng thuyết (Trí giải luận), họ rơi
vào hắc pháp, không có thể giác ngộ rõ ràng… đối với các kinh tạng do Như Lai
tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các
kinh ấy được thuyết giảng, họ không có nghe, họ không có lắng tai, họ không an
trú tâm liễu giải, họ không nghĩ rằng các kinh ấy cần phải học tập, cần phải học
thuộc lòng.
Còn những kinh
điển do các thi sĩ làm, những bài thi, với những chữ văn hoa,
với những câu văn hoa, thuộc ngoại điển do các đệ tử thuyết, trong khi
các kinh ấy được thuyết giảng, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ lóng
tai, họ an trú tâm liễu giải. Các pháp ấy, họ sẽ nghĩ cần phải học tập, cần phải
học thuộc lòng. Này các Tỷ-kheo, đây là do Pháp ô nhiễm, nên Luật ô nhiễm; do
Luật ô nhiễm, nên Pháp ô nhiễm.
Này các Tỷ-kheo,
đây là sợ hãi thứ tư… thứ năm về tương lai, nay chưa
sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần
phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần
phải tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy” (Kinh Tăng Chi 2, Chương 5,
trang 480).
Lời căn dặn
rõ ràng là như vậy, thế nhưng với đoạn phụ giải của dịch giả Pháp
Minh, phản ảnh đúng với thực trạng của Phật giáo Nam Tông, đã cho chúng ta những
câu trả lời đáng sợ hãi.
Kỳ lạ thay,
sự vô lý, phi pháp và phi mục đích hiển nhiên như thế lại tồn tại trong Phật
giáo “chánh truyền” hàng ngàn năm, kể từ khi “Thánh tăng Phật Âm” không biết mệt
mỏi xuôi về phương Nam chuyển đạo xoay đời.
Và đáng tiếc
thay, cũng theo Tỳ-kheo Pháp Minh, chỉ có một số chư Tăng ở Thái Lan là biết bắt
đầu ngờ vực “Thánh tăng Phật Âm” mà thôi!
Hóa ra lời
tiên tri của Đấng Chánh Biến Tri về nguy cơ tiêu hoại của Chánh Pháp sau năm
trăm năm đã thực sự đúng với cả một “truyền thống” vốn được mệnh danh và tự hào
là “Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada”!
Mọi người phải
nhớ lại điều này để cảnh giác trước mọi chú giải, luận giải và kinh-luật-luận
sau này của các ông Bà-la-môn gián điệp, chứ không phải bi quan rằng Diệu Pháp
của Phật đã hoàn toàn tiêu diệt.
Bởi,
trong tạng Luật Pātimokkha đã nói rõ, dù Kinh điển có bị quên lãng, dù Diệu
Pháp 37 Phẩm Trợ Đạo không còn được thọ trì đúng đắn, thế nhưng còn tạng Luật
Pātimokkha là Giáo Pháp vẫn còn tồn tại:
“Khi Tạng
Kinh quên lãng
và luôn Tạng
Diệu Pháp,
còn Tạng
Luật chưa hoại
Giáo Pháp
vẫn tồn tại.”
(Đại Phẩm,
phần cuối Chương Trọng Yếu)
Khi Phật dạy kệ ngôn trên, ‘Tạng Kinh’ chính là Chín
Tạng Thánh Kinh, bao
gồm Khế
Kinh, Ứng Tụng, Ký Thuyết, Phúng Tụng, Không Hỏi Tự Nói, Như Thị Thuyết, Bổn
Sanh, Vị Tằng Hữu Pháp, và Phương Quảng; còn ‘Tạng Diệu Pháp’ chính
là 37 Phẩm Trợ
Đạo. Rõ ràng ngày
nay hai Thánh Tạng này đã bị lãng quên, không còn được
chú tâm truyền thừa tu tập. May mắn thay, tạng Luật Pātimokkha vẫn còn được giữ gìn nguyên
vẹn, và vì vậy Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn tồn tại! Vì sao
như vậy?
Vì vị Tỳ-kheo nào biết giữ gìn giới hạnh Pātimokkha
thanh tịnh sẽ có tâm thanh tịnh, nhờ có tâm thanh tịnh nên tri kiến thanh tịnh,
nhờ tri kiến thanh tịnh nên mới có Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh (Kinh
Trạm Xe). Vị này nhờ có Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh mới biết rõ đâu
là Chánh đạo, đâu
là tà đạo đã bị ngộ nhận. Nhờ vậy Chánh Pháp sẽ được nhận chân rõ ràng.
Cho đến khi nào mọi người con Phật biết trân trọng đúng Chín
Tạng Thánh Kinh của
Phật, biết thực hành giới
luật thanh tịnh cùng 37 Phẩm Trợ Đạo, cảnh giác loại trừ những tà kiến phi
Phật pháp đã bị ngộ nhận, lúc ấy Giáo Pháp Chính
Thống lại được
xương minh sáng ngời!

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét