Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

95-CON NGỰA THÀNH TROY/ 15

 

95-CON NGỰA THÀNH TROY/ 15

13) Luận tạng - “Con ngựa thành Troy” trong Theravada

Có thể ví các chú giải của Bà-la-môn Phật Âm và tạng Luận - Vi Diệu Pháp như một kiểu “Con ngựa thành Troy” trong Phật giáo Nam Tông.

Thật vậy, một khi các Tỳ-kheo nào đã mất cảnh giác, không còn dựa trên căn bản địa của một bậc Hiền trí, một chiều tin tưởng và chấp nhận tạng Luận với hàng trăm tâm xứ; như vậy là họ đã tự mở rộng cửa, kéo đưa “con ngựa gỗ” chết người vào trong thành trì của mình.

Và khi họ tin rằng năm trăm tâm sở, tâm vương, tâm đáo đại, tâm hiệp thế… trong Vi Diệu Pháp mới thật sự cao siêu vi diệu, còn lời Phật trong kinh gốc chỉ là tục đế, là thường pháp, điều này có nghĩa chính họ đã vô tư để cho năm-trăm-chiến-binh-sát-thủ từ trong bụng con ngựa gỗ thoải mái lao ra kết liễu sinh mạng tu tập theo đúng chánh đạo của họ.

Đáng buồn hơn, trong khi nhân dân thành Troy trước khi chết đã kịp nhận ra âm mưu thâm độc của kẻ thù và không phải vì thế mà họ bị đọa vào địa ngục; ngược lại những ai tin tưởng Phật Âm Bà-la-môn và con ngựa tạng Luận của các luận sư gián điệp, cho đến tận khi lâm chung vẫn còn ngây thơ thích thú vinh danh tà kiến cùng tổ sư của mình. Hẳn nhiên họ có thể quên lời dạy của Phật, vui mừng ôm lấy ảo tưởng cho chính mình, nhưng địa ngục không bao giờ quên và nhận lầm những kẻ ôm giữ tà kiến như họ.

Trong chánh Kinh – chánh Luật đã có rất nhiều những lời cảnh giác về thủ đoạn gián điệp của những kẻ ngoại học ngay khi Đức Phật còn tại tiền, như trường hợp của sa môn giả hiệu Migalandika, nhóm Lục sư ngoại đạo (tạng Luật), Bà-la-môn Uttara “trong bảy tháng theo sát Thế Tôn như bóng không bao giờ rời hình” Kinh Brahmāyu, Trung bộ 3), hay như du sĩ ngoại đạo Potaliputta, các Bà-la-môn Sonakāyana, Sanjaya, Vassakāra…

Họ đều là những kẻ ngoại học thâm hiểm cũng biết giả danh Phật để lừa gạt đệ tử Phật, cũng biết xuyên tạc những lời của Phật để tuyên truyền tà thuyết. Lịch sử thường lập lại và sự phá hoại Đạo Phật thì thời nào cũng có.

Vì vậy, ghi nhớ những bài học lịch sử trong kinh điển sẽ không bao giờ thừa!

Chính vì thế, chỉ có những ai biết trân trọng ghi nhớ những lời dạy đích thực của Đức Thích Ca Mâu Ni trong kinh tạng Pāli và biết thận trọng đem so sánh, đối chiếu chúng với những luận giải của Phật Âm Bà-la-môn, họ mới có thể phát giác những thâm ý độc hại của “ngài” Buddhaghosa, kẻ khét tiếng trong việc chống các phái ly giáo khỏi Bà-la-môn giáo.

Bên cạnh đó, về phần mình, các tu sĩ Phật giáo phải ý thức rõ ràng về những sợ hãi đã được Đức Thế Tôn tiên tri trong chánh kinh Nikāya. Họ phải tích cực tu tập về thân, về giới, về tâm, về tuệ, có vậy mới mong đoạn tận các Pháp ô nhiễm, các Luật ô nhiễm do các luận giải ngụy trá đã sanh khởi ngay trong chính truyền thống được mệnh danh là “Nguyên thủy Theravada” của mình.

Đức Chánh Biến Tri đã khuyến cáo: Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập.

Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, khi họ thuyết về Thắng pháp hay về Quảng thuyết (Trí giải luận), họ rơi vào hắc pháp, không có thể giác ngộ rõ ràng… đối với các kinh tạng do Như Lai tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ không có nghe, họ không có lắng tai, họ không an trú tâm liễu giải, họ không nghĩ rằng các kinh ấy cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng.

Còn những kinh điển do các thi sĩ làm, những bài thi, với những chữ văn hoa, với những câu văn hoa, thuộc ngoại điển do các đệ tử thuyết, trong khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ lóng tai, họ an trú tâm liễu giải. Các pháp ấy, họ sẽ nghĩ cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng. Này các Tỷ-kheo, đây là do Pháp ô nhiễm, nên Luật ô nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp ô nhiễm.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ tư… thứ năm về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy” (Kinh Tăng Chi 2, Chương 5, trang 480).

Lời căn dặn rõ ràng là như vậy, thế nhưng với đoạn phụ giải của dịch giả Pháp Minh, phản ảnh đúng với thực trạng của Phật giáo Nam Tông, đã cho chúng ta những câu trả lời đáng sợ hãi.

Kỳ lạ thay, sự vô lý, phi pháp và phi mục đích hiển nhiên như thế lại tồn tại trong Phật giáo “chánh truyền” hàng ngàn năm, kể từ khi “Thánh tăng Phật Âm” không biết mệt mỏi xuôi về phương Nam chuyển đạo xoay đời.

Và đáng tiếc thay, cũng theo Tỳ-kheo Pháp Minh, chỉ có một số chư Tăng ở Thái Lan là biết bắt đầu ngờ vực “Thánh tăng Phật Âm” mà thôi!

Hóa ra lời tiên tri của Đấng Chánh Biến Tri về nguy cơ tiêu hoại của Chánh Pháp sau năm trăm năm đã thực sự đúng với cả một “truyền thống” vốn được mệnh danh và tự hào là “Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada”!

Mọi người phải nhớ lại điều này để cảnh giác trước mọi chú giải, luận giải và kinh-luật-luận sau này của các ông Bà-la-môn gián điệp, chứ không phải bi quan rằng Diệu Pháp của Phật đã hoàn toàn tiêu diệt.

Bởi, trong tạng Luật Pātimokkha đã nói rõ, dù Kinh điển có bị quên lãng, dù Diệu Pháp 37 Phẩm Trợ Đạo không còn được thọ trì đúng đắn, thế nhưng còn tạng Luật Pātimokkha là Giáo Pháp vẫn còn tồn tại:

“Khi Tạng Kinh quên lãng

và luôn Tạng Diệu Pháp,

còn Tạng Luật chưa hoại

Giáo Pháp vẫn tồn tại.”

(Đại Phẩm, phần cuối Chương Trọng Yếu)

Khi Phật dạy kệ ngôn trên, ‘Tạng Kinh’ chính là Chín Tạng Thánh Kinh, bao gồm Khế Kinh, Ứng Tụng, Ký Thuyết, Phúng Tụng, Không Hỏi Tự Nói, Như Thị Thuyết, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu Pháp, và Phương Quảngcòn ‘Tạng Diệu Pháp’ chính là 37 Phẩm Trợ Đạo. Rõ ràng ngày nay hai Thánh Tạng này đã bị lãng quên, không còn được chú tâm truyền thừa tu tập. May mắn thay, tạng Luật Pātimokkha vẫn còn được giữ gìn nguyên vẹn, và vì vậy Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn tồn tại! Vì sao như vậy?

Vì vị Tỳ-kheo nào biết giữ gìn giới hạnh Pātimokkha thanh tịnh sẽ có tâm thanh tịnh, nhờ có tâm thanh tịnh nên tri kiến thanh tịnh, nhờ tri kiến thanh tịnh nên mới có Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh (Kinh Trạm Xe). Vị này nhờ có Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh mới biết rõ đâu là Chánh đạo, đâu là tà đạo đã bị ngộ nhận. Nhờ vậy Chánh Pháp sẽ được nhận chân rõ ràng.

Cho đến khi nào mọi người con Phật biết trân trọng đúng Chín Tạng Thánh Kinh của Phật, biết thực hành giới luật thanh tịnh cùng 37 Phẩm Trợ Đạo, cảnh giác loại trừ những tà kiến phi Phật pháp đã bị ngộ nhận, lúc ấy Giáo Pháp Chính Thống lại được xương minh sáng ngời!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

  124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT! Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết...