92-CON NGỰA THÀNH TROY/ 12
10) Thủ
tiêu kinh gốc
Thế nhưng,
thật nguy hiểm và đáng lưu ý, như trong phần phụ giải ở trang 93 sách “Chú giải
Kinh Pháp Cú tập 1” trích dẫn ở trên, dịch giả Pháp Minh cũng đã nêu rõ:
“Ngài
Buddhaghosa, tác giả bộ Chú Giải Pháp Cú Kinh, là một Tỳ-khưu ở xứ
Thaton, dòng dõi Bà-la-môn xuất gia theo Phật giáo vào thế kỷ thứ V,
Ngài rất thông suốt Tam Tạng và được Phật giáo Nam Tông xem là một vị
Thánh Tăng, đã có công chấn chỉnh Phật giáo suy đồi ở Tích Lan, thủ
tiêu những kinh điển mà Ngài cho là không đúng đường lối của Đức Phật,
và có viết lại bằng Pāli những Bộ Chú Giải, nhất là bộ Visuddhimagga (Thanh
Tịnh Đạo) mà chư Tăng ngày nay lấy làm kinh chánh để
tu học về GIỚI - ĐỊNH - TUỆ.
Tuy
nhiên, gần đây có một số chư Tăng ở Thái Lan bắt đầu ngờ vực những
công trình của Ngài. Vì lẽ, dòng dõi Bà-la-môn của Ngài bao giờ cũng chủ
tâm dẹp bỏ Phật giáo, hay ít nhất cũng hạ bệ Phật và sắp Ngài vào hàng dưới Đức
Phạm Thiên của họ, biết đâu chừng những kinh chính thống Phật giáo đã bị thiêu
đốt và thay thế bằng những giáo lý lai Bà-la-môn?”.
Trước hết,
chuyện ông Bà-la-môn này có phải là Thánh tăng hay không, chỉ có Đức Thế Tôn mới
biết được, và cũng chỉ có Đức Phật mới đủ quyền hạn ấn chứng Thánh quả cho người
khác mà thôi.
Tiếc thay Phật
Âm ra đời sau Phật Thích Ca hàng ngàn năm, vậy làm sao Đức Phật phong A-la-hán
cho ông ta được? Nếu Phật Âm tự xưng thì vị Tỳ-kheo gốc Bà-la-môn này đã phạm đại
tội Ba La Di thứ tư (trừ khi ông ta là kẻ đại vọng ngữ).
Còn nếu ông
ta không tự xưng, thử hỏi, ông Tỳ-kheo nào trong đám hậu sinh lại dám và dựa
vào đâu phong Thánh cho vị truyền nhân Bà-la-môn này?
Nếu căn cứ
vào mớ chú giải đồ sộ của Phật Âm mà tôn làm Thánh tăng ư? Hãy coi chừng! Vì
sao? Vì một kẻ gián điệp với ý thức “chống phá các phái ly giáo khỏi Bà-la-môn
không mệt mỏi” và được huấn luyện bởi hai phái "vijja" và
"sippa”, và có kiến thức rất sâu rộng về ba phái "Phệ-đà”chẳng
lẽ không làm nổi chuyện này hay sao?
Các chú giải
của Bà-la-môn Phật Âm có “đồ sộ” bằng các kinh-luật-luận của các luận sư
Bà-la-môn ở phương Bắc như Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước… hay không?
Tại sao các
Tỳ-kheo Nam Tông không tin các ông luận sư Bà-la-môn Đại Thừa nhưng lại dễ dàng
tin vào luận sư Bà-la-môn của mình như vậy?
Có thể chăng
một luận sư Bà-la-môn với những chú giải đầy thâm ý và ngụy trá, không theo
đúng ý Phật lời Kinh như trên lại có thể “chấn chỉnh Phật giáo suy đồi ở
Tích Lan”?
Hay đây cũng
chỉ là đòn tuyên truyền của những kẻ gian manh theo kiểu “một đồn mười, mười đồn
trăm”, để rồi cứ thế ôm lưng nhau nhắm mắt mà tin giống như điều thường thấy
trong tôn giáo?
Nhưng cho dù
có thật Phật giáo Tích Lan được Phật Âm Bà-la-môn “chấn chỉnh” chăng nữa, thì
nguyên nhân thực tế là do các tu sĩ Phật giáo Tích Lan nói riêng và Phật giáo
Nam Tông nói chung đã không chịu cảnh giác thận trọng theo tinh thần bài kinh dạy
cho dân Kalama.
Họ đã không
y chỉ sát những lời dạy đích thực của Đức Phật trong kinh điển Nikāya nên mới bị
mê mờ tin theo truyền thuyết, tin đồn khiến không còn ai tỉnh táo để nhận diện cái “bộ mặt
thật xưa nay” của các du sĩ ngoại đạo. Để rồi chẳng ai có thể vạch trần âm mưu thủ đoạn của
một luận sư Bà-la-môn gián điệp nằm vùng như Phật Âm Bà-la-môn mà thôi.
Nếu Phật
giáo ở phương Bắc đã bị các tổ sư gián điệp gốc Bà-la-môn chui vào phân hóa phá
hoại, chẳng lẽ Phật giáo Nam Tông sẽ bất khả xâm phạm với họ? Trái lại là đằng
khác, họ phải “nhổ cỏ tận gốc”, phải chặn nước tận nguồn và đây chính là lý do
vì sao một luận sư khét tiếng chống các phái ly giáo khỏi Bà-la-môn như Phật Âm
lại sẵn sàng đóng vai gián điệp, xông vào nằm vùng trong Phật giáo.
Nếu mọi người
biết rõ như vậy, cảnh giác như vậy, làm sao một ông Bà-la-môn như Phật Âm với
những chú giải phi lý, với những luận giải không y chỉ đúng ý Phật lời Kinh lại
có thể “chấn chỉnh Phật giáo” cho được.
Hẳn, một vị
có đẳng cấp Bà-la-môn như Phật Âm cũng thừa biết: dù ông ta có đứng ngoài Phật
giáo hô hào luận giải tới cả trăm năm cũng chẳng ai thèm nghe.
Thế nhưng Phật
Âm Bà-la-môn chỉ cần cải trang nằm trong chính Phật giáo và tự “thần thánh hóa”
chính mình, tức khắc ông ta sẽ được những kẻ cả tin tôn thờ kính ngưỡng. Và nhờ vậy, Phật Âm mới có dịp “thủ tiêu những kinh điển
mà Ngài cho là không đúng đường lối của Đức Phật”.
Căn cứ
vào số thứ tự trong Tương Ưng Bộ và Kinh Tập (Sutta Nipata) sẽ thấy các tạng
kinh này đã bị bỏ bớt rất nhiều bài kinh.
Thậm chí
ngay cả một chương Tương Ưng về Thiền rất quan trọng cũng đã bị xóa bỏ gần như
trống rỗng, chỉ còn sót lại các tựa đề.
Riêng đối
với Trung Bộ hoặc Trường Bộ việc thủ tiêu các bài kinh rồi đánh số lại không có
khó khăn gì.
Tình cảnh
này của Phật giáo chẳng khác nào thảm cảnh của vua An Dương Vương: giặc ở ngay
trước mặt mình nhưng vẫn không hay biết, bị tước lấy nỏ thần thật mà vẫn không hay, để rồi
khi biết được sự thật thì hỡi ơi quá trễ.
Vì sao nên nỗi?
Vì chỉ có cả tin ngây thơ tin bừa tín bậy cho nên một kẻ nội gian gián điệp như
Trọng Thủy mới thực hiện được nhiệm vụ của mình. Ngay trong thời Phật, các
Bà-la-môn đã biết đóng vai Triệu Đà – Trọng Thủy, chẳng lẽ một ngàn năm sau, Phật
Âm Bà-la-môn lại chịu thua kém các tiền bối của mình?

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét