91-CON NGỰA THÀNH TROY/ 11
9) Kế
sách gián điệp trong cuộc đấu tranh ý thức hệ tôn giáo
Những ai tin
tưởng Phật Âm Bà-la-môn không thể bỏ qua bản tường
trình Dhammakitti viết về Buddhaghosa. Nguyên văn còn ghi rõ: “Trong
khi tường trình về triều đại nhà vua Mahānāma trị vì tại đảo quốc
Tích Lan vào những năm đầu thế kỷ thứ V sau CN, cuốn biên niên sử Mahāvaṃsa đã
kể lại cuộc đời và sự nghiệp của Buddhaghosa như sau:
"Ông
là một thanh niên thuộc đẳng cấp Bà-la-môn, sinh tại
vùng phụ cận thị trấn Magadha, là nơi trồng cây Đại Bồ-đề, ông đã hoàn
tất việc huấn luyện theo phái "vijja" và "sippa”, và
có kiến thức rất sâu rộng về ba phái "Phệ-đà”, và ông cũng
là người có được nhiều tài năng uyên bác, đã hoạt động không biết mỏi mệt
chống lại các phái ly giáo, đã tự coi mình là người chống lại ly giáo khắp
vùng Jumbudīpa…” (Nguyên tác: The Life and work of Buddhaghosa. Tác giả:
Bimala Charan Law, M.A., B.L; Dịch giả: Tỳ-khưu Thiện Minh)
Đương nhiên,
trong lúc này, dù thanh niên Phật Âm đã hoàn tất việc huấn luyện theo phái
"vijja" và "sippa”, nhưng “ngài” vẫn chưa xâm nhập vào Phật
giáo, và khi “ngài” tích cực chống các phái ly khai khỏi Bà-la-môn giáo cũng có
nghĩa là “ngài” nỗ lực chống phá cả Đạo Phật.
Những ai còn muốn bênh vực Phật Âm, cho
rằng thanh niên Bà-la-môn này nỗ lực ‘chống các phái ly giáo’ là
chống các phái ly giáo khỏi Đạo Phật, các vị này cần phải nêu các
chứng minh cụ thể Buddhaghosa có ý thức giúp đoàn kết hoà hợp Tăng
như thế nào, hay ngược lại chỉ toàn chú giải vô căn cứ, phá hoại
Phật Pháp như cuốn sách này đang chứng minh.
Vả
lại Đạo Phật là đạo của trí tuệ, chỉ có người trí tự mình giác
hiểu, tự thực hành, tự giác ngộ, chính vì thế Đức Thế Tôn chỉ
tích cực khuyến giáo, nêu rõ Chánh Pháp, tà pháp giúp Tăng chúng
cường mạnh; chứ Ngài chẳng bao giờ mất công dụ dỗ hoặc chống phá
một ai đã không muốn theo mình. Bên cạnh đó, bản án cho tội ly giáo,
phá hoà hợp Tăng là phải đọa địa ngục trọn kiếp đã quá đủ, các
Phật tử còn cần gì phải chống lại ai để rơi vào bẫy của ác ma?
Do vậy Phật Âm với một “kiến thức sâu
rộng” thừa biết muốn phá hoại đối thủ có ảnh hưởng nguy hại
cho Bà-la-môn, chỉ có một
cách hiệu quả nhất là chui vào chính hàng ngũ của đối phương để lũng
đoạn.
Và nếu
như một người có tài năng uyên bác, đã hoạt động không biết mỏi mệt chống lại
các phái ly giáo như “ngài” có lẹ làng chạy vào nằm trong các phái ly giáo và
không mệt mỏi viết cả một pho chú giải đồ sộ nhằm thực hiện kế sách gián điệp,
phá hoại đối thủ ngay từ bên trong, đây cũng là điều hết sức dễ hiểu.
Hãy trở lại
vấn đề phong thánh bừa bãi của Phật Âm để hình dung. Có thể thấy rõ tà kiến này
không những đã gây nên những ngộ nhận nguy hiểm về sự chứng đắc thánh quả
A-la-hán đối với những đệ tử Phật, mà còn tạo ra những hiểu lầm tai hại đối với
những người ngoài Phật giáo.
Nhìn từ bên
ngoài, với một người ngoại cuộc không có đức tin nơi Tam Bảo, nhưng họ cũng
nghĩ rằng danh từ “Thánh” là một khái niệm cao quý khó đạt được, chỉ dành cho
các bậc cao nhân phi phàm hiếm có, và nếu họ không xem thường Thánh quả
A-la-hán của Đạo Phật (vì ngay cả một em học sinh còn phải mất một năm để học
và thi mới có thể tốt nghiệp lớp... một); thì khi họ đọc chú-giải-phong-thánh bừa
bãi của Phật Âm, hẳn nhiên họ có quyền khách quan nghĩ rằng tác giả Phật Âm là
một kẻ phóng lưỡi bạt mạng, vung bút ba sạo, hứa nhăng hơn Cuội.
Mà Phật Âm
là ai? Tất cả các đĩa, băng, sách của Phật giáo Nam Tông đều xưng “ngài” là
“Thánh Tăng”. Vì thế người ấy có quyền nghĩ khác đi: “Các Thánh Tăng của Phật
giáo thực ra cũng chỉ là những ông... dóc Tổ”. Và khi ấy tiếng xấu thuộc về ai:
Phật Âm hay Phật giáo? Đương nhiên là cả hai. Nhưng Phật Âm mất mát gì ở đây
khi ông ta vốn thuộc đẳng cấp Bà-la-môn và đã luân hồi theo nghiệp của mình từ
lâu rồi.
Chỉ có điều
với mớ chú giải mà Phật Âm Bà-la-môn để lại cho Phật giáo, liệu có ai ngoại cuộc
còn muốn tìm hiểu một Đạo Phật có một ông Tổ nói dóc như vậy? Hoặc nếu có, thì
cũng như một số học giả phương Tây đã phải chán nản thốt lên về tạng luận Vi Diệu
Pháp “của” Phật giáo, với họ nó chẳng khác nào “Thung lũng của các đống xương
khô” (The valley of dry bones).
Xét về nhiều
mặt, rút cuộc chỉ có Đạo Phật do ly khai với Bà-la-môn giáo của Phật Âm là lãnh
đủ.
Thế mới biết
kế sách gián điệp luôn là một thủ đoạn nguy hiểm và một tay gián điệp tầm cỡ có
khi còn tác hại hơn cả một binh đoàn là vậy. Cho nên không phải vô cớ mà ngay
phần đầu của bài kinh quan trọng Đại Bát Niết-Bàn (Trường Bộ 1), ghi lại những
lời di giáo cuối cùng của Đức Thế Tôn, đã nêu lên âm mưu thâm độc của Bà-la-môn
Vassakara trong việc dùng kế sách duy nhất “ngoại giao và ly gián” để
tiêu diệt dân thành Vajji hùng mạnh.
Và những ai
còn ghi nhớ Tạng Luật, hẳn không được quyền quên cái tên Migalaṇḍika, một sa
môn giả hiệu bị xúi giục đến độ lợi dụng thời cơ, hằng ngày xách cây gươm đẫm
máu giết chết hàng chục vị Tỳ-kheo.
Bên cạnh đó,
thanh niên Bà-la-môn Uttara đã theo sát Đức Thế Tôn suốt bảy tháng liền để dò
xét (Kinh Brahmàyu, số 91, Trung Bộ 2); còn trong bài kinh số 122, Tương
Ưng tập 1 đã nhắc nhở tế nhị hơn: “Ác ma đi theo Thế Tôn trong suốt bảy
năm, với hy vọng tìm cho được lỗi lầm, nhưng tìm không được”...
Đáng tiếc
thay, những cảnh giác báo động về sự hiểm ác khốc liệt của cuộc chiến tranh ý
thức hệ tôn giáo dù được nói đến rất nhiều trong kinh tạng Nikaya, thế nhưng
chúng đã không được các đệ tử chánh truyền của Đức Phật lưu tâm thọ giáo.
Ngược lại, một
khi họ đã tin lời các luận sư xem chánh Kinh chỉ là thường pháp, là tục đế;
ngay tức khắc họ đã bị rơi vào chính gian kế “ngoại giao và ly gián” của con
cháu Bà-la-môn Vassakara, để rồi cứ nhắm mắt ôm lấy “thanh gươm tạng luận” chặt
bỏ cả chánh Kinh và tự giết chết chính mình.
Chính vì
không trân trọng đúng mức những lời dạy đích thực đầy trí tuệ của Đức Phật
trong kinh điển Nikaya nên các tu sĩ Phật giáo, cả Bắc Tông lẫn Nam Tông, đều
không còn cảnh giác thận trọng, một chiều nhắm mắt tin theo các nhà ngoại giáo
giả kết giao xâm nhập vào nằm trong chính Phật giáo để phá hoại.
Các đệ tử Phật
cả tin đã không hề ý thức rằng chỉ có như thế các tổ sư gốc Bà-la-môn mới đóng
trọn vai “Trọng Thủy”, mới có thể đưa vào những “nỏ thần giả” với những kinh-luật-luận
trái với tinh thần Kinh Luật gốc, mới có thể phá hoại bức thành trì Đạo Phật
ngay từ bên trong.
Có vậy họ mới
thực hiện thành công thâm kế ly gián Đại Thừa, Tiểu Thừa, Theravada - không
Theravada, Mật Tông, Thiền Tông, Pháp Hoa Tông, Luận Tông, Tịnh Độ Tông... mới
đẩy được người Phật tử vào giữa chốn rừng ngụy kinh hoang vu mù mịt.
Nếu các tu
sĩ Phật giáo không quá tin vào các luận sư gốc Bà-la-môn, không chia chẻ Phật
giáo đến “tám muôn bốn ngàn” giáo lý, trước sau vẫn chỉ là một khối thống nhất
như trong thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hoặc sau đó vài trăm năm; thì những người
con Phật đã không lâm vào cảnh “nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng
thiên, tam niên bất kiến Phật”.
Nhưng cũng lạ
một điều, Phật giáo kể từ thế kỷ thứ 5 sau CN đã có một bề dày lịch sử hàng
ngàn năm, với biết bao trưởng lão “nguyên thủy từ trong bụng mẹ”, vậy mà những
tu sĩ Nam Tông đã không tìm hiểu, không tham khảo những vị này.
Để rồi cũng
chẳng khác gì các tu sĩ Bắc Tông tin ngay vào các ông luận sư gốc Bà-la-môn như
Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước...; các Tỳ-kheo “chánh tông” cũng hùa nhau tin tưởng
một chiều vào mớ chú giải “vĩ đại” của vị luận sư Bà-la-môn đằng mình. Đến độ họ
không còn ý thức cảnh giác rằng, dù Bà-la-môn ở phương Bắc hay phương Nam, thì
đều có khả năng ôm giữ một truyền thống chống phá Đạo Phật ngay từ những lúc Đức
Thế Tôn còn hiện tiền cũng như cho đến tận ngày nay.
Rõ ràng điều
khó hiểu này, ngoài sự ngây thơ, cả tin, mê tín thì không còn một nguyên nhân
nào để có thể giải thích cho thỏa đáng.
Tất nhiên,
ngay trong thời Đức Phật cũng đã có một số Bà-la-môn chân chính quy y thật sự
nơi Tam Bảo. Nhưng xin thưa, một điểm khác biệt quan trọng là các vị này có
duyên may được chính Đức Thế Tôn trực tiếp giáo hóa.
Và dù thực tế
cũng đã có rất nhiều những người ngoại học có thiện tâm quy y Tam Bảo; thế
nhưng bên cạnh đó, như trong chánh tạng còn ghi lại, cũng đã có rất nhiều các
sa môn, Bà-la-môn vẫn kiên trì cố chấp ôm giữ ác tà kiến của mình, đã thực hiện
biết bao những hành vi chống phá, xuyên tạc, vu khống, thậm chí giết chết cả đệ
tử Phật.
Nhìn vào lịch
sử nhân loại cũng thấy rõ, cuộc đấu tranh ý thức hệ tôn giáo luôn là một trong
những cuộc chiến tranh dai dẳng nhất và cũng khốc liệt nhất. Trong đó cũng
không thiếu những âm mưu, thủ đoạn, gian trá, lọc lừa.
Tất nhiên Đạo
Phật đứng ngoài những tranh chấp ấy và người Phật tử thấm nhuần tinh thần từ
bi, năm giới, và tin vào luật nhân quả nên không bao giờ có ý muốn hay hành động
ám hại một ai. Thế nhưng cũng đừng vì thế mà ngây thơ cho rằng không có một ai
muốn phá hoại Phật Pháp, không có một âm mưu nào muốn tiêu diệt Phật giáo.
Chính vì lẽ
đó, mặc dù những Phật tử chân chính không được đa nghi vô cớ, nhưng cũng xin chớ
quá ngây thơ cả tín vội vàng.
Một người đệ
tử Phật có trí tuệ, không vội mê tín và có sự suy tư cân nhắc theo tinh thần
bài kinh dạy cho dân Kalama, sẽ phải thận trọng cảnh giác trước các luận giải của
một luận sư Bà-la-môn “đã hoàn tất việc huấn luyện theo phái
"vijja" và "sippa” và “tự coi mình là người chống
lại ly giáo khắp vùng Jumbudipa”.
Nếu được như
vậy, cơ đồ của Phật giáo mới không bị tiêu diệt như thực trạng ngày nay ngay tại
chính thánh địa của Đạo Phật và cũng là lãnh địa của cả Bà-la-môn giáo.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét