Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

91-CON NGỰA THÀNH TROY/ 11

 

91-CON NGỰA THÀNH TROY/ 11

9) Kế sách gián điệp trong cuộc đấu tranh ý thức hệ tôn giáo

Những ai tin tưởng Phật Âm Bà-la-môn không thể bỏ qua bản tường trình Dhammakitti viết về Buddhaghosa. Nguyên văn còn ghi rõ: “Trong khi tường trình về triều đại nhà vua Mahānāma trị vì tại đảo quốc Tích Lan vào những năm đầu thế kỷ thứ V sau CN, cuốn biên niên sử Mahāvaṃsa đã kể lại cuộc đời và sự nghiệp của Buddhaghosa như sau:

"Ông là một thanh niên thuộc đẳng cấp Bà-la-môn, sinh tại vùng phụ cận thị trấn Magadha, là nơi trồng cây Đại Bồ-đề, ông đã hoàn tất việc huấn luyện theo phái "vijja" và "sippa”,  và có kiến thức rất sâu rộng về ba phái "Phệ-đà”,  và ông cũng là người có được nhiều tài năng uyên bác, đã hoạt động không biết mỏi mệt chống lại các phái ly giáo, đã tự coi mình là người chống lại ly giáo khắp vùng Jumbudīpa…” (Nguyên tác: The Life and work of Buddhaghosa. Tác giả: Bimala Charan Law, M.A., B.L; Dịch giả: Tỳ-khưu Thiện Minh)

Đương nhiên, trong lúc này, dù thanh niên Phật Âm đã hoàn tất việc huấn luyện theo phái "vijja" và "sippa”, nhưng “ngài” vẫn chưa xâm nhập vào Phật giáo, và khi “ngài” tích cực chống các phái ly khai khỏi Bà-la-môn giáo cũng có nghĩa là “ngài” nỗ lực chống phá cả Đạo Phật.

Những ai còn muốn bênh vực Phật Âm, cho rằng thanh niên Bà-la-môn này nỗ lực ‘chống các phái ly giáo’ là chống các phái ly giáo khỏi Đạo Phật, các vị này cần phải nêu các chứng minh cụ thể Buddhaghosa có ý thức giúp đoàn kết hoà hợp Tăng như thế nào, hay ngược lại chỉ toàn chú giải vô căn cứ, phá hoại Phật Pháp như cuốn sách này đang chứng minh. 

 Vả lại Đạo Phật là đạo của trí tuệ, chỉ có người trí tự mình giác hiểu, tự thực hành, tự giác ngộ, chính vì thế Đức Thế Tôn chỉ tích cực khuyến giáo, nêu rõ Chánh Pháp, tà pháp giúp Tăng chúng cường mạnh; chứ Ngài chẳng bao giờ mất công dụ dỗ hoặc chống phá một ai đã không muốn theo mình. Bên cạnh đó, bản án cho tội ly giáo, phá hoà hợp Tăng là phải đọa địa ngục trọn kiếp đã quá đủ, các Phật tử còn cần gì phải chống lại ai để rơi vào bẫy của ác ma?

 Do vậy Phật Âm với một “kiến thức sâu rộng” thừa biết muốn phá hoại đối thủ có ảnh hưởng nguy hại cho Bà-la-môn, chỉ có một cách hiệu quả nhất là chui vào chính hàng ngũ của đối phương để lũng đoạn.

 Và nếu như một người có tài năng uyên bác, đã hoạt động không biết mỏi mệt chống lại các phái ly giáo như “ngài” có lẹ làng chạy vào nằm trong các phái ly giáo và không mệt mỏi viết cả một pho chú giải đồ sộ nhằm thực hiện kế sách gián điệp, phá hoại đối thủ ngay từ bên trong, đây cũng là điều hết sức dễ hiểu.

Hãy trở lại vấn đề phong thánh bừa bãi của Phật Âm để hình dung. Có thể thấy rõ tà kiến này không những đã gây nên những ngộ nhận nguy hiểm về sự chứng đắc thánh quả A-la-hán đối với những đệ tử Phật, mà còn tạo ra những hiểu lầm tai hại đối với những người ngoài Phật giáo.

Nhìn từ bên ngoài, với một người ngoại cuộc không có đức tin nơi Tam Bảo, nhưng họ cũng nghĩ rằng danh từ “Thánh” là một khái niệm cao quý khó đạt được, chỉ dành cho các bậc cao nhân phi phàm hiếm có, và nếu họ không xem thường Thánh quả A-la-hán của Đạo Phật (vì ngay cả một em học sinh còn phải mất một năm để học và thi mới có thể tốt nghiệp lớp... một); thì khi họ đọc chú-giải-phong-thánh bừa bãi của Phật Âm, hẳn nhiên họ có quyền khách quan nghĩ rằng tác giả Phật Âm là một kẻ phóng lưỡi bạt mạng, vung bút ba sạo, hứa nhăng hơn Cuội.

Mà Phật Âm là ai? Tất cả các đĩa, băng, sách của Phật giáo Nam Tông đều xưng “ngài” là “Thánh Tăng”. Vì thế người ấy có quyền nghĩ khác đi: “Các Thánh Tăng của Phật giáo thực ra cũng chỉ là những ông... dóc Tổ”. Và khi ấy tiếng xấu thuộc về ai: Phật Âm hay Phật giáo? Đương nhiên là cả hai. Nhưng Phật Âm mất mát gì ở đây khi ông ta vốn thuộc đẳng cấp Bà-la-môn và đã luân hồi theo nghiệp của mình từ lâu rồi.

Chỉ có điều với mớ chú giải mà Phật Âm Bà-la-môn để lại cho Phật giáo, liệu có ai ngoại cuộc còn muốn tìm hiểu một Đạo Phật có một ông Tổ nói dóc như vậy? Hoặc nếu có, thì cũng như một số học giả phương Tây đã phải chán nản thốt lên về tạng luận Vi Diệu Pháp “của” Phật giáo, với họ nó chẳng khác nào “Thung lũng của các đống xương khô” (The valley of dry bones).

Xét về nhiều mặt, rút cuộc chỉ có Đạo Phật do ly khai với Bà-la-môn giáo của Phật Âm là lãnh đủ.

Thế mới biết kế sách gián điệp luôn là một thủ đoạn nguy hiểm và một tay gián điệp tầm cỡ có khi còn tác hại hơn cả một binh đoàn là vậy. Cho nên không phải vô cớ mà ngay phần đầu của bài kinh quan trọng Đại Bát Niết-Bàn (Trường Bộ 1), ghi lại những lời di giáo cuối cùng của Đức Thế Tôn, đã nêu lên âm mưu thâm độc của Bà-la-môn Vassakara trong việc dùng kế sách duy nhất “ngoại giao và ly gián” để tiêu diệt dân thành Vajji hùng mạnh.

Và những ai còn ghi nhớ Tạng Luật, hẳn không được quyền quên cái tên Migalaṇḍika, một sa môn giả hiệu bị xúi giục đến độ lợi dụng thời cơ, hằng ngày xách cây gươm đẫm máu giết chết hàng chục vị Tỳ-kheo.

Bên cạnh đó, thanh niên Bà-la-môn Uttara đã theo sát Đức Thế Tôn suốt bảy tháng liền để dò xét (Kinh Brahmàyu, số 91, Trung Bộ 2); còn trong bài kinh số 122, Tương Ưng tập 1 đã nhắc nhở tế nhị hơn: “Ác ma đi theo Thế Tôn trong suốt bảy năm, với hy vọng tìm cho được lỗi lầm, nhưng tìm không được”...

Đáng tiếc thay, những cảnh giác báo động về sự hiểm ác khốc liệt của cuộc chiến tranh ý thức hệ tôn giáo dù được nói đến rất nhiều trong kinh tạng Nikaya, thế nhưng chúng đã không được các đệ tử chánh truyền của Đức Phật lưu tâm thọ giáo.

Ngược lại, một khi họ đã tin lời các luận sư xem chánh Kinh chỉ là thường pháp, là tục đế; ngay tức khắc họ đã bị rơi vào chính gian kế “ngoại giao và ly gián” của con cháu Bà-la-môn Vassakara, để rồi cứ nhắm mắt ôm lấy “thanh gươm tạng luận” chặt bỏ cả chánh Kinh và tự giết chết chính mình.

Chính vì không trân trọng đúng mức những lời dạy đích thực đầy trí tuệ của Đức Phật trong kinh điển Nikaya nên các tu sĩ Phật giáo, cả Bắc Tông lẫn Nam Tông, đều không còn cảnh giác thận trọng, một chiều nhắm mắt tin theo các nhà ngoại giáo giả kết giao xâm nhập vào nằm trong chính Phật giáo để phá hoại.

Các đệ tử Phật cả tin đã không hề ý thức rằng chỉ có như thế các tổ sư gốc Bà-la-môn mới đóng trọn vai “Trọng Thủy”, mới có thể đưa vào những “nỏ thần giả” với những kinh-luật-luận trái với tinh thần Kinh Luật gốc, mới có thể phá hoại bức thành trì Đạo Phật ngay từ bên trong.

Có vậy họ mới thực hiện thành công thâm kế ly gián Đại Thừa, Tiểu Thừa, Theravada - không Theravada, Mật Tông, Thiền Tông, Pháp Hoa Tông, Luận Tông, Tịnh Độ Tông... mới đẩy được người Phật tử vào giữa chốn rừng ngụy kinh hoang vu mù mịt.

Nếu các tu sĩ Phật giáo không quá tin vào các luận sư gốc Bà-la-môn, không chia chẻ Phật giáo đến “tám muôn bốn ngàn” giáo lý, trước sau vẫn chỉ là một khối thống nhất như trong thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hoặc sau đó vài trăm năm; thì những người con Phật đã không lâm vào cảnh “nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật”.

Nhưng cũng lạ một điều, Phật giáo kể từ thế kỷ thứ 5 sau CN đã có một bề dày lịch sử hàng ngàn năm, với biết bao trưởng lão “nguyên thủy từ trong bụng mẹ”, vậy mà những tu sĩ Nam Tông đã không tìm hiểu, không tham khảo những vị này.

Để rồi cũng chẳng khác gì các tu sĩ Bắc Tông tin ngay vào các ông luận sư gốc Bà-la-môn như Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước...; các Tỳ-kheo “chánh tông” cũng hùa nhau tin tưởng một chiều vào mớ chú giải “vĩ đại” của vị luận sư Bà-la-môn đằng mình. Đến độ họ không còn ý thức cảnh giác rằng, dù Bà-la-môn ở phương Bắc hay phương Nam, thì đều có khả năng ôm giữ một truyền thống chống phá Đạo Phật ngay từ những lúc Đức Thế Tôn còn hiện tiền cũng như cho đến tận ngày nay.

Rõ ràng điều khó hiểu này, ngoài sự ngây thơ, cả tin, mê tín thì không còn một nguyên nhân nào để có thể giải thích cho thỏa đáng.

Tất nhiên, ngay trong thời Đức Phật cũng đã có một số Bà-la-môn chân chính quy y thật sự nơi Tam Bảo. Nhưng xin thưa, một điểm khác biệt quan trọng là các vị này có duyên may được chính Đức Thế Tôn trực tiếp giáo hóa.

Và dù thực tế cũng đã có rất nhiều những người ngoại học có thiện tâm quy y Tam Bảo; thế nhưng bên cạnh đó, như trong chánh tạng còn ghi lại, cũng đã có rất nhiều các sa môn, Bà-la-môn vẫn kiên trì cố chấp ôm giữ ác tà kiến của mình, đã thực hiện biết bao những hành vi chống phá, xuyên tạc, vu khống, thậm chí giết chết cả đệ tử Phật.

Nhìn vào lịch sử nhân loại cũng thấy rõ, cuộc đấu tranh ý thức hệ tôn giáo luôn là một trong những cuộc chiến tranh dai dẳng nhất và cũng khốc liệt nhất. Trong đó cũng không thiếu những âm mưu, thủ đoạn, gian trá, lọc lừa.

Tất nhiên Đạo Phật đứng ngoài những tranh chấp ấy và người Phật tử thấm nhuần tinh thần từ bi, năm giới, và tin vào luật nhân quả nên không bao giờ có ý muốn hay hành động ám hại một ai. Thế nhưng cũng đừng vì thế mà ngây thơ cho rằng không có một ai muốn phá hoại Phật Pháp, không có một âm mưu nào muốn tiêu diệt Phật giáo.

Chính vì lẽ đó, mặc dù những Phật tử chân chính không được đa nghi vô cớ, nhưng cũng xin chớ quá ngây thơ cả tín vội vàng.

Một người đệ tử Phật có trí tuệ, không vội mê tín và có sự suy tư cân nhắc theo tinh thần bài kinh dạy cho dân Kalama, sẽ phải thận trọng cảnh giác trước các luận giải của một luận sư Bà-la-môn “đã hoàn tất việc huấn luyện theo phái "vijja" và "sippa” và “tự coi mình là người chống lại ly giáo khắp vùng Jumbudipa”.

Nếu được như vậy, cơ đồ của Phật giáo mới không bị tiêu diệt như thực trạng ngày nay ngay tại chính thánh địa của Đạo Phật và cũng là lãnh địa của cả Bà-la-môn giáo.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

  124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT! Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết...