90-CON NGỰA THÀNH TROY/ 10
8) Xuyên tạc thâm độc
Cũng cần nhắc
thêm, trong chú giải Phật Âm Bà-la-môn còn cố tình lược bỏ hoặc xuyên tạc rất
nhiều các sự kiện, các mẫu chuyện mang ý nghĩa giáo dục rất có giá trị của
Chánh Pháp, điển hình là câu chuyện về tấm lòng từ bi để diệt hận thù của Thái
tử Trường Sanh (Dīghāvu) như trong Tạng Luật còn ghi rõ.
Trong câu
chuyện này, câu nói hàm ý hận thù diệt hận thù, không đời nào có được,
chỉ có từ bi diệt hận thù là định luật ngàn thu, nguyên gốc do chính đức
vua Dīghīti xứ Kosala dạy cho Hoàng tử Dīghāvu nhằm khuyên dạy Hoàng tử
Dīghāvu chớ ôm lòng hận thù trả oán vua Brahmadatta xứ Kāsī, cho dù vua
Brahmadatta đã ra lệnh giết chết đức vua và hoàng hậu Dīghīti xứ
Kosala là cha mẹ của Hoàng tử Dīghāvu.
Nguyên văn
trong chánh Luật còn ghi rõ lời Phật kể lại chuyện vua Dīghīti nói với Hoàng tử
Dīghāvu trên đường đến pháp trường:
“[244] … Này
các Tỳ-khưu, đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nhìn thấy hoàng tử Dīghāvu từ đàng xa
đang đi lại, sau khi thấy đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu
thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì
các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính
vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.””
Và ngay
trong những đoạn Luật kế tiếp Đức Phật đã đọc kệ ngôn giữa Tăng chúng. Sự kiện
này cùng bài kệ ngôn hoàn toàn trùng khớp với nội dung bài kinh Tùy Phiền Não;
và đã được truyền tụng thành các kệ ngôn 3, 4, 5 và 6 của Kinh Pháp Cú như đã
giới thiệu ở trước.
Tóm lại cả
hai tạng Kinh và Luật gốc đã giải chú rõ ràng, chi tiết và chính xác gốc tích kệ
ngôn của Kinh Pháp Cú.
Thế nhưng, một
ngàn năm sau trong chú giải của Bà-la-môn Phật Âm, câu kệ này lại được gắn
vào chuyện oan trái giữa hai nữ nhân. Một trong hai oan gia này đến thời Đức Phật
trở thành một nữ Dạ Xoa. Sau một lần nữ Dạ Xoa này vừa ăn thịt hai đứa con của
kẻ thù xong, nghe câu kệ trên liền chứng ngay thành “Thánh quả Tu-đà-hoàn” của
Đạo Phật (trang 92) (?!)
Thế mới biết
tài năng chú giải của Phật Âm Bà-la-môn như thế nào, và những kẻ tin theo chú
giải đã dễ dãi ngây thơ đến như thế nào!!!
Lại nữa, trong
chánh Luật lời kết luận của Đức Thế Tôn về câu chuyện của hoàng tử Dīghāvu thật
chí tình chí nghĩa, mang đầy tính nhân bản vị tha: “Này các Tỳ-khưu,
ngay chính những người ấy là các vị vua đã cầm lấy gậy, đã cầm lấy gươm mà còn
có sự kham nhẫn và khoan dung như thế ấy. Này các Tỳ-khưu, ở đây các ngươi hãy
làm rạng rỡ việc các ngươi đang được xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết
giảng như vầy, các ngươi hãy nên bày tỏ sự kham nhẫn và lòng khoan dung”.
Trái lại, Phật
Âm Bà-la-môn lại gian hiểm “gắn” vào miệng Phật những lời kết luận mơ hồ, vừa
không đúng với cốt truyện lại vừa rất dễ gây nhiều ngộ nhận: “Nầy các Tỳ-khưu,
dầu cho Phụ vương và Mẫu hậu đã bị hành quyết rồi, Thái tử Trường Sanh cũng
không trái lời di chúc của Tiên Vương. Về sau được vua Brahmadatta phong làm
phò mã và nhường cả ngai vàng, thành ra một mình thống lãnh cả hai lãnh thổ là
xứ Kàsi và Kosala. Còn các ông bây giờ lại cãi, không nghe lời Ta. Tội lỗi của
các ông nặng nề biết mấy” (trang 122-123).
Theo chú giải
của Bà-la-môn Phật Âm người đọc phải hiểu rằng: Đức Bổn Sư muốn nhắc các ông Tỳ-kheo
phải biết vâng lời Phật, dù cho cha mẹ có bị hành quyết cũng không màng, nhờ vậy
cũng được làm phò mã, làm vua cũng
nên?
Không chỉ có
thế, thâm ý nhất là đoạn cuối khi Bà-la-môn Phật Âm trắng trợn xuyên tạc sự kiện
các Tỳ-kheo ở Kosambī đến xin Đức Phật tha thứ.
Theo chú giải
của ông luận sư Bà-la-môn, chính bản thân Đức Bổn Sư đã ra lệnh bắt họ ở riêng
không cho các Tỳ-kheo khác tiếp xúc để đến lúc nhiều người nghe tiếng đồn, tìm
tới hỏi Đức Phật ai là những Tỳ-kheo tranh chấp ở Kosambī thì “Đức Bổn
Sư chỉ ngay họ cho thiện tín thấy. Rồi hết người nọ đến người kia, họ lấy tay
chỉ truyền nhau: “Nghe nói là mấy ông Sư đó đó”. Thét rồi, chư Tỳ-kheo ấy hổ thẹn
chẳng dám ngó lên đến quỳ mọp dưới chân Đức Bổn Sư và xin xám hối với
Ngài” (trang 122).
Xin hỏi:
- Phải chăng
Bà-la-môn Phật Âm muốn chú giải rằng Đấng Điều Ngự Trượng Phu thực ra vẫn còn
nhỏ mọn, cố chấp nên tìm cách trả đũa đệ tử dù họ đã biết hồi tâm quay lại?
- Phải chăng
Bà-la-môn Phật Âm muốn chú giải rằng các Tỳ-kheo quỳ mọp dưới chân Đức Phật sám
hối chỉ vì họ bị áp lực bởi người khác chứ không phải vì họ kính phục trí tuệ
và phẩm hạnh của Ngài?
Để thấy rõ
hơn thâm ý ngụy trá của vị luận sư Bà-la-môn, mời mọi người trở về nguồn đọc kỹ
phần trích dẫn sau đây trong Chánh Luật Tạng, Chương Kosambī:
“... Sau
đó, theo tuần tự các Tỳ-khưu ở Kosambī đã đến được thành Sāvatthi. Khi ấy, đại
đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi
ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức
Thế Tôn điều này:
- Bạch
ngài, nghe nói các Tỳ-khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung
đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đã
đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên tiến hành chỗ trú ngụ cho các Tỳ-khưu
ấy như thế nào?
- Này
Sāriputta, như thế thì ngươi nên cho chỗ trú ngụ cách biệt.
- Bạch
ngài, nếu không được cách biệt thì nên thực hành như thế nào?
- Này
Sāriputta, như thế thì nên làm thành cách biệt rồi giao cho. Này Sāriputta,
nhưng không vì bất cứ lý do gì mà Ta nói rằng: “Được xâm phạm chỗ trú ngụ của vị
Tỳ-khưu thâm niên hơn”, vị nào xâm phạm thì phạm tội dukkaṭa (tác
ác).
- Bạch
ngài, nên thực hành như thế nào về tài vật?
- Này
Sāriputta, tài vật nên được chia phần đồng đều cho tất cả”.
Trước đó,
khi được mọi người hỏi cần phải có thái độ như thế nào đối với “các vị thường
gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng
trong hội chúng”, Đức Phật đã chỉ dạy rất rõ ràng cụ thể, hợp tình hợp lý cho từng
đối tượng một.
_ Với ngài
Xá-lợi-phất và các Thánh Tăng A-la-hán: “- Này Sāriputta, như thế thì
ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp” (Trong tạng Luật,
Đức Phật còn chỉ dạy rất rõ ràng thế nào là đúng Pháp và sai Pháp).
_ Với bà
Gotami: “- Này Gotamī, như thế thì bà hãy nghe Pháp ở cả hai
bên; sau khi nghe Pháp ở cả hai bên, các Tỳ-khưu bên nào là các vị nói đúng
Pháp thì bà hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của
các vị ấy. Và bất cứ điều gì hội chúng Tỳ-khưu ni cần mong mỏi từ hội chúng Tỳ-khưu
thì nên mong mỏi tất cả các điều ấy từ các vị nói đúng Pháp”.
_ Với các
gia chủ như ông Anāthapindika và bà Visākhā: “- Này gia chủ, như
thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường
rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các Tỳ-khưu
bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh
hướng, và lập luận của các vị ấy”.
(Qua những lời
dạy trên càng chứng tỏ hai nhóm tranh chấp tại Kosambī không phải là hai nhóm
Luật sư và Pháp sư như chú giải của Phật Âm. Nếu mọi người “nghe Pháp ở cả hai
bên” thì nhóm Luật sư làm sao bằng được nhóm Pháp sư?)
Đương nhiên
với sự hành xử đúng Pháp và cao thượng của Đức Thế Tôn, cuối cùng cuộc tranh chấp
đã được giải quyết một cách tốt đẹp nhất cho tất cả mọi phía. Và cũng tất
nhiên, kết cuộc trọn lành này đã không được nêu lên trong chú giải của Phật Âm
Bà-la-môn.
Rõ ràng chỉ
có những đầu óc mê mờ mù quáng tin càn, không còn muốn ghi nhớ lời Phật trong
chánh Kinh - chánh Luật, không còn nhận thức rõ danh xưng cao quý Minh Hạnh Túc
của Phật mới có thể chấp nhận và xem những luận giải thâm độc như trên của
Bà-la-môn Phật Âm ngang hàng Thánh điển.
Đến đây lại
xin sám hối với Đức Thế Tôn vì phải dùng chính những lời dạy cao quý của Ngài để
chú thích cho những điều tự giải ngụy tạo của Bà-la-môn Phật Âm nhằm thấy rõ ý
đồ phá hoại Phật pháp ngầm của ông ta:
“Ở đây,
này Upāli, các Tỷ-kheo
1.thuyết
phi pháp là pháp;
2.thuyết
Pháp là phi pháp;
3.thuyết
phi luật là luật;
4.thuyết
Luật là phi luật;
5.thuyết
điều Như Lai không nói, không thuyết, là điều Như Lai nói, Như Lai thuyết;
6.thuyết
điều Như Lai có nói, có thuyết, là điều Như Lai không nói, không thuyết;
7.thuyết
điều Như Lai thường không sở hành là điều Như Lai thường sở hành;
8.thuyết
điều Như Lai thường sở hành là điều Như Lai không thường sở hành;
9.thuyết
điều Như Lai không chế đặt là điều Như Lai chế đặt;
10.thuyết
điều Như Lai có chế đặt là điều Như Lai không có chế đặt.
Chính do
mười sự này, họ phá hoại, họ chia
rẽ, họ hành bất động yết-ma, họ tuyên
đọc giới bổn Pātimokkha khác biệt. Cho đến như vậy, này Upāli, là chúng
Tăng bị phá hoại” (Tăng Chi 4, chương 10, kinh số 35)
Vâng, kính bạch
Đức Thế Tôn, đúng như điều Ngài đã cảnh báo, chính các Tỳ-kheo xuyên tạc Pháp,
xuyên tạc Luật, xuyên tạc Đức Thế Tôn. Các Tỳ-kheo ấy là ai?
Họ chính là
các “Tỳ-kheo” giả dạng, họ chính là các gián điệp ngoại học đội lốt Phật tử.
Họ cũng là
các Tỳ-kheo tin bừa các “Tỳ-kheo” gián điệp.
Họ cũng là
các Tỳ-kheo thối đọa không còn đủ trí tuệ nhận biết đâu là chánh, đâu là tà;
đâu là thật, đâu là giả.
Chính họ phá
hoại chúng Tăng, chính họ chia rẽ chúng Tăng, chính họ là những con trùng thực
sư tử nhục.
Đáng sợ
thay, với họ địa ngục Vô gián cho tội phá hòa hợp Tăng không sao tránh khỏi!
Ở đây, ông
“Tỳ-kheo” gián điệp phá hoại chúng Tăng, không ai khác hơn chính là Phật Âm -
Buddhaghosa. Và những “Tỳ-kheo” thuyết phi pháp, phi luật chính là những ai đã
nhắm mắt tin theo ông luận sư gốc Bà-la-môn này.
Như đã nhận
định ở phần đầu, nếu đọc kỹ lưỡng cẩn trọng các tài liệu trong chánh tạng sẽ thấy
rõ ngay phần luận giải của luận sư Bà-la-môn không những đã không giải chú được
một điều gì hay hơn, trái lại đã lược bỏ rất nhiều các sự kiện quan trọng có ý
nghĩa tích cực và còn thêm vào nhiều chi tiết mang tính chất vu khống, xuyên tạc
thâm hiểm.
Chỉ trong một
bài “chú thích tự giải” dài vài chục trang nhưng đã có biết bao những bất cập
đáng nghi ngờ với nhiều thâm ý hiểm độc như vậy, thử hỏi cả một bộ chú giải
Kinh Pháp Cú, Kinh Trung Bộ, Trường Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng, Tiểu Bộ, Luật Tạng,
Thánh Pháp Tạng, Thanh Tịnh Đạo... vị luận sư gốc Bà-la-môn Phật Âm còn dẫn những
người tin theo ông ta đi xa tới đâu?

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét