Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

90-CON NGỰA THÀNH TROY/ 10

 

90-CON NGỰA THÀNH TROY/ 10

8) Xuyên tạc thâm độc

Cũng cần nhắc thêm, trong chú giải Phật Âm Bà-la-môn còn cố tình lược bỏ hoặc xuyên tạc rất nhiều các sự kiện, các mẫu chuyện mang ý nghĩa giáo dục rất có giá trị của Chánh Pháp, điển hình là câu chuyện về tấm lòng từ bi để diệt hận thù của Thái tử Trường Sanh (Dīghāvu) như trong Tạng Luật còn ghi rõ.

Trong câu chuyện này, câu nói hàm ý hận thù diệt hận thù, không đời nào có được, chỉ có từ bi diệt hận thù là định luật ngàn thu, nguyên gốc do chính đức vua Dīghīti xứ Kosala dạy cho Hoàng tử Dīghāvu nhằm khuyên dạy Hoàng tử Dīghāvu chớ ôm lòng hận thù trả oán vua Brahmadatta xứ Kāsī, cho dù vua Brahmadatta đã ra lệnh giết chết đức vua và hoàng hậu Dīghīti xứ Kosala là cha mẹ của Hoàng tử Dīghāvu.

Nguyên văn trong chánh Luật còn ghi rõ lời Phật kể lại chuyện vua Dīghīti nói với Hoàng tử Dīghāvu trên đường đến pháp trường:

“[244] … Này các Tỳ-khưu, đức vua Dīghīti xứ Kosala đã nhìn thấy hoàng tử Dīghāvu từ đàng xa đang đi lại, sau khi thấy đã nói với hoàng tử Dīghāvu điều này: “Này Dīghāvu thương, con hãy nhìn chớ có xa, chớ có gần. Này Dīghāvu thương, bởi vì các sự thù hận không được làm lắng dịu bởi thù hận. Này Dīghāvu thương, chính vì không thù hận mà các sự thù hận được lắng dịu.””

Và ngay trong những đoạn Luật kế tiếp Đức Phật đã đọc kệ ngôn giữa Tăng chúng. Sự kiện này cùng bài kệ ngôn hoàn toàn trùng khớp với nội dung bài kinh Tùy Phiền Não; và đã được truyền tụng thành các kệ ngôn 3, 4, 5 và 6 của Kinh Pháp Cú như đã giới thiệu ở trước.

Tóm lại cả hai tạng Kinh và Luật gốc đã giải chú rõ ràng, chi tiết và chính xác gốc tích kệ ngôn của Kinh Pháp Cú.

Thế nhưng, một ngàn năm sau trong chú giải của Bà-la-môn Phật Âm, câu kệ này lại được gắn vào chuyện oan trái giữa hai nữ nhân. Một trong hai oan gia này đến thời Đức Phật trở thành một nữ Dạ Xoa. Sau một lần nữ Dạ Xoa này vừa ăn thịt hai đứa con của kẻ thù xong, nghe câu kệ trên liền chứng ngay thành “Thánh quả Tu-đà-hoàn” của Đạo Phật (trang 92) (?!)

Thế mới biết tài năng chú giải của Phật Âm Bà-la-môn như thế nào, và những kẻ tin theo chú giải đã dễ dãi ngây thơ đến như thế nào!!!

Lại nữa, trong chánh Luật lời kết luận của Đức Thế Tôn về câu chuyện của hoàng tử Dīghāvu thật chí tình chí nghĩa, mang đầy tính nhân bản vị tha: “Này các Tỳ-khưu, ngay chính những người ấy là các vị vua đã cầm lấy gậy, đã cầm lấy gươm mà còn có sự kham nhẫn và khoan dung như thế ấy. Này các Tỳ-khưu, ở đây các ngươi hãy làm rạng rỡ việc các ngươi đang được xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy, các ngươi hãy nên bày tỏ sự kham nhẫn và lòng khoan dung”.

Trái lại, Phật Âm Bà-la-môn lại gian hiểm “gắn” vào miệng Phật những lời kết luận mơ hồ, vừa không đúng với cốt truyện lại vừa rất dễ gây nhiều ngộ nhận: “Nầy các Tỳ-khưu, dầu cho Phụ vương và Mẫu hậu đã bị hành quyết rồi, Thái tử Trường Sanh cũng không trái lời di chúc của Tiên Vương. Về sau được vua Brahmadatta phong làm phò mã và nhường cả ngai vàng, thành ra một mình thống lãnh cả hai lãnh thổ là xứ Kàsi và Kosala. Còn các ông bây giờ lại cãi, không nghe lời Ta. Tội lỗi của các ông nặng nề biết mấy” (trang 122-123).

Theo chú giải của Bà-la-môn Phật Âm người đọc phải hiểu rằng: Đức Bổn Sư muốn nhắc các ông Tỳ-kheo phải biết vâng lời Phật, dù cho cha mẹ có bị hành quyết cũng không màng, nhờ vậy cũng được làm phò mã, làm vua cũng nên?        

Không chỉ có thế, thâm ý nhất là đoạn cuối khi Bà-la-môn Phật Âm trắng trợn xuyên tạc sự kiện các Tỳ-kheo ở Kosambī đến xin Đức Phật tha thứ.

Theo chú giải của ông luận sư Bà-la-môn, chính bản thân Đức Bổn Sư đã ra lệnh bắt họ ở riêng không cho các Tỳ-kheo khác tiếp xúc để đến lúc nhiều người nghe tiếng đồn, tìm tới hỏi Đức Phật ai là những Tỳ-kheo tranh chấp ở Kosambī thì “Đức Bổn Sư chỉ ngay họ cho thiện tín thấy. Rồi hết người nọ đến người kia, họ lấy tay chỉ truyền nhau: “Nghe nói là mấy ông Sư đó đó”. Thét rồi, chư Tỳ-kheo ấy hổ thẹn chẳng dám ngó lên đến quỳ mọp dưới chân Đức Bổn Sư và xin xám hối với Ngài” (trang 122).

Xin hỏi:

- Phải chăng Bà-la-môn Phật Âm muốn chú giải rằng Đấng Điều Ngự Trượng Phu thực ra vẫn còn nhỏ mọn, cố chấp nên tìm cách trả đũa đệ tử dù họ đã biết hồi tâm quay lại?

- Phải chăng Bà-la-môn Phật Âm muốn chú giải rằng các Tỳ-kheo quỳ mọp dưới chân Đức Phật sám hối chỉ vì họ bị áp lực bởi người khác chứ không phải vì họ kính phục trí tuệ và phẩm hạnh của Ngài?

Để thấy rõ hơn thâm ý ngụy trá của vị luận sư Bà-la-môn, mời mọi người trở về nguồn đọc kỹ phần trích dẫn sau đây trong Chánh Luật Tạng, Chương Kosambī:

“... Sau đó, theo tuần tự các Tỳ-khưu ở Kosambī đã đến được thành Sāvatthi. Khi ấy, đại đức Sāriputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, nghe nói các Tỳ-khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đã đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên tiến hành chỗ trú ngụ cho các Tỳ-khưu ấy như thế nào?

- Này Sāriputta, như thế thì ngươi nên cho chỗ trú ngụ cách biệt.

- Bạch ngài, nếu không được cách biệt thì nên thực hành như thế nào?

- Này Sāriputta, như thế thì nên làm thành cách biệt rồi giao cho. Này Sāriputta, nhưng không vì bất cứ lý do gì mà Ta nói rằng: “Được xâm phạm chỗ trú ngụ của vị Tỳ-khưu thâm niên hơn”, vị nào xâm phạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

- Bạch ngài, nên thực hành như thế nào về tài vật?

- Này Sāriputta, tài vật nên được chia phần đồng đều cho tất cả”.

Trước đó, khi được mọi người hỏi cần phải có thái độ như thế nào đối với “các vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng”, Đức Phật đã chỉ dạy rất rõ ràng cụ thể, hợp tình hợp lý cho từng đối tượng một.

_ Với ngài Xá-lợi-phất và các Thánh Tăng A-la-hán: “- Này Sāriputta, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp (Trong tạng Luật, Đức Phật còn chỉ dạy rất rõ ràng thế nào là đúng Pháp và sai Pháp).

_ Với bà Gotami: “- Này Gotamī, như thế thì bà hãy nghe Pháp ở cả hai bên; sau khi nghe Pháp ở cả hai bên, các Tỳ-khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì bà hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy. Và bất cứ điều gì hội chúng Tỳ-khưu ni cần mong mỏi từ hội chúng Tỳ-khưu thì nên mong mỏi tất cả các điều ấy từ các vị nói đúng Pháp”.

_ Với các gia chủ như ông Anāthapindika và bà Visākhā: “- Này gia chủ, như thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các Tỳ-khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy”.

(Qua những lời dạy trên càng chứng tỏ hai nhóm tranh chấp tại Kosambī không phải là hai nhóm Luật sư và Pháp sư như chú giải của Phật Âm. Nếu mọi người “nghe Pháp ở cả hai bên” thì nhóm Luật sư làm sao bằng được nhóm Pháp sư?)

Đương nhiên với sự hành xử đúng Pháp và cao thượng của Đức Thế Tôn, cuối cùng cuộc tranh chấp đã được giải quyết một cách tốt đẹp nhất cho tất cả mọi phía. Và cũng tất nhiên, kết cuộc trọn lành này đã không được nêu lên trong chú giải của Phật Âm Bà-la-môn.

Rõ ràng chỉ có những đầu óc mê mờ mù quáng tin càn, không còn muốn ghi nhớ lời Phật trong chánh Kinh - chánh Luật, không còn nhận thức rõ danh xưng cao quý Minh Hạnh Túc của Phật mới có thể chấp nhận và xem những luận giải thâm độc như trên của Bà-la-môn Phật Âm ngang hàng Thánh điển.

Đến đây lại xin sám hối với Đức Thế Tôn vì phải dùng chính những lời dạy cao quý của Ngài để chú thích cho những điều tự giải ngụy tạo của Bà-la-môn Phật Âm nhằm thấy rõ ý đồ phá hoại Phật pháp ngầm của ông ta:

“Ở đây, này Upāli, các Tỷ-kheo

1.thuyết phi pháp là pháp;

2.thuyết Pháp là phi pháp;

3.thuyết phi luật là luật;

4.thuyết Luật là phi luật;

5.thuyết điều Như Lai không nói, không thuyết, là điều Như Lai nói, Như Lai thuyết;

6.thuyết điều Như Lai có nói, có thuyết, là điều Như Lai không nói, không thuyết;

7.thuyết điều Như Lai thường không sở hành là điều Như Lai thường sở hành;

8.thuyết điều Như Lai thường sở hành là điều Như Lai không thường sở hành;

9.thuyết điều Như Lai không chế đặt là điều Như Lai chế đặt;

10.thuyết điều Như Lai có chế đặt là điều Như Lai không có chế đặt.

Chính do mười sự này, họ phá hoại, họ chia rẽ, họ hành bất động yết-ma, họ tuyên đọc giới bổn Pātimokkha khác biệt. Cho đến như vậy, này Upāli, là chúng Tăng bị phá hoại” (Tăng Chi 4, chương 10, kinh số 35)

Vâng, kính bạch Đức Thế Tôn, đúng như điều Ngài đã cảnh báo, chính các Tỳ-kheo xuyên tạc Pháp, xuyên tạc Luật, xuyên tạc Đức Thế Tôn. Các Tỳ-kheo ấy là ai?

Họ chính là các “Tỳ-kheo” giả dạng, họ chính là các gián điệp ngoại học đội lốt Phật tử.

Họ cũng là các Tỳ-kheo tin bừa các “Tỳ-kheo” gián điệp.

Họ cũng là các Tỳ-kheo thối đọa không còn đủ trí tuệ nhận biết đâu là chánh, đâu là tà; đâu là thật, đâu là giả.

Chính họ phá hoại chúng Tăng, chính họ chia rẽ chúng Tăng, chính họ là những con trùng thực sư tử nhục.

Đáng sợ thay, với họ địa ngục Vô gián cho tội phá hòa hợp Tăng không sao tránh khỏi!

Ở đây, ông “Tỳ-kheo” gián điệp phá hoại chúng Tăng, không ai khác hơn chính là Phật Âm - Buddhaghosa. Và những “Tỳ-kheo” thuyết phi pháp, phi luật chính là những ai đã nhắm mắt tin theo ông luận sư gốc Bà-la-môn này.

Như đã nhận định ở phần đầu, nếu đọc kỹ lưỡng cẩn trọng các tài liệu trong chánh tạng sẽ thấy rõ ngay phần luận giải của luận sư Bà-la-môn không những đã không giải chú được một điều gì hay hơn, trái lại đã lược bỏ rất nhiều các sự kiện quan trọng có ý nghĩa tích cực và còn thêm vào nhiều chi tiết mang tính chất vu khống, xuyên tạc thâm hiểm.

Chỉ trong một bài “chú thích tự giải” dài vài chục trang nhưng đã có biết bao những bất cập đáng nghi ngờ với nhiều thâm ý hiểm độc như vậy, thử hỏi cả một bộ chú giải Kinh Pháp Cú, Kinh Trung Bộ, Trường Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng, Tiểu Bộ, Luật Tạng, Thánh Pháp Tạng, Thanh Tịnh Đạo... vị luận sư gốc Bà-la-môn Phật Âm còn dẫn những người tin theo ông ta đi xa tới đâu?


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

  124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT! Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết...