Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

89-CON NGỰA THÀNH TROY/ 9

 

89-CON NGỰA THÀNH TROY/ 9

7) Phá hoại chân lý

Cũng theo chú giải của Phật Âm Bà-la-môn, khi ngài A-nan dẫn đồ chúng vào rừng thỉnh Phật trở về, sau đó Đức Thế Tôn có dạy ba câu kệ cho các Tỳ-kheo.

Gần một ngàn năm sau, Bà-la-môn Phật Âm đã vẽ thêm chi tiết này để rồi nhân đó bắt chước chú Cuội khoác lác “ấn chứng” hàng loạt cho các Tỳ-kheo đắc A La Hán và thổi bùng dân số Thánh Thinh văn:

Kệ ngôn vừa dứt, năm trăm vị Tỳ-khưu đều đắc quả A-la-hán. Kế đó Đại đức Ananda chuyển lời thỉnh cầu của ông Anāthapindika và các thiện tín khác, Đại đức nói: - Bạch Ngài! Năm mươi triệu Thánh Thinh Văn có ông Anāthapindika là người lãnh đạo, kính gởi lời xin cung thỉnh Đức Tôn Sư trở về Jetavana.” (trang 119).

Xin hỏi những ai tin Phật Âm, ông luận sư gốc Bà-la-môn sống sau Phật cả ngàn năm căn cứ vào đâu lại có con số khổng lồ “năm mươi triệu Thánh Thinh Văn”, trong khi sự kiện xảy ra tại Kosambī mới chỉ là hạ thứ mười trong số 45 năm thuyết pháp của Đức Thế Tôn? Trong khi với kinh văn gốc rất dễ dàng tìm thấy những con số khả tín, ví dụ như: “Rồi Gia chủ Anāthapindika với khoảng năm trăm nam cư sĩ đi đến Thế Tôn”(Kinh Hoan Hỷ (Tăng Chi 5 Pháp, Phẩm Nam Cư Sĩ)? Thậm chí ngay cả với Hoàng triều: “Rồi Cundì, con gái vua, với năm trăm thiếu nữ hộ tống trên năm trăm cỗ xe đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên” (Kinh Cundī, Con Gái Vua (Tăng Chi 5 Pháp, Phẩm Sumanà)?

Rõ ràng ông luận sư Bà-la-môn cố tình đặt con số khổng lồ này vào miệng của Ngài Ananda nhằm lắt léo tố cáo Thánh Tăng của Đạo Phật cũng chỉ là một kẻ nói khoác!

Lại nữa, Phật Âm dựa vào đâu để cho Thánh quả A-la-hán của Đạo Phật được chứng đắc tập thể quá dễ dàng như vậy?

Chỉ nghe một kệ ngôn đã có tới năm trăm A-la-hán chứng đắc, thử hỏi trong suốt các tập chú giải của Phật Âm có tổng số bao nhiêu các A-la-hán?

Phải chăng Phật Âm gắn con số “năm mươi triệu Thánh Thanh Văn” đi kèm với con số “năm trăm vị Tỳ-khưu đều đắc quả A-la-hán” nhằm “giúp” người đọc chưa tin Phật có thể nghĩ ngay rằng Kinh Luận của Phật giáo chỉ là loại “kinh bịa”.

Để biết kiểu phong thánh bừa bãi của Phật Âm Bà-la-môn đã xuyên tạc chánh pháp như thế nào, trước hết cũng phải căn cứ vào chánh Kinh. Ngoài các tài liệu gốc như đã nêu ở trước, trong Tương Ưng còn có bài kinh Pārileyya với nhiều chi tiết liên quan trùng khớp với sự kiện tại Kosambī.

Theo bài kinh này, tôn giả A-nan cùng các Tỳ-kheo có đến Pārileyya hỏi pháp Đức Thế Tôn, thế nhưng nội dung bài kinh này không quá đơn giản như sự chú giải xuyên tạc của Phật Âm. Do khuôn khổ của bài viết này không thể giải thích hết được ý nghĩa đầy đủ của bài kinh, ở đây chỉ nêu một trích đoạn để gợi ý:

“Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo sanh khởi suy nghĩ như sau: "Biết như thế nào, thấy như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?"

Thế Tôn với tâm của mình biết được suy nghĩ của Tỷ-kheo ấy, liền nói với các Tỷ-kheo:

-- Này các Tỷ-kheo, Pháp đã được giải thích, thuyết giảng. Bốn Niệm Xứđã được giải thích, thuyết giảng. Bốn Chánh Cần đã được giải thích, thuyết giảng. Bốn Như Ý Túc đã được giải thích, thuyết giảng. Năm Cănđã được giải thích, thuyết giảng. Năm Lực đã được giải thích, thuyết giảng. Bảy Bồ Đề Phần đã được giải thích, thuyết giảng. Thánh Đạo Tám Ngành đã được giải thích, thuyết giảng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, pháp được Ta giải thích, thuyết giảng…” (S.iii,94)

Một hệ thống giáo pháp vĩ mô với các hệ thống Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ Đề Phần, Tám Chánh Đạo đã bị Phật Âm Bà-la-môn bỏ lờ trong chú giải của mình. Thay vào đó ‘ngài’ đã cho một lúc ‘năm trăm’ Tỳ-kheo chứng đắc A-la-hán dễ dàng chỉ vì nghe một câu kệ! Những ai đã biết hệ thống thánh pháp 37 Phẩm Trợ Đạo này đều hiểu chúng có hiệu lực đặc biệt để đoạn diệt phiền não lậu hoặc tức thời, thế nhưng việc chứng quả A-la-hán hoàn toàn không phải như thế!

Thật vậy, mặc dù với các Diệu pháp này “các lậu hoặc được đoạn tận lập tức” và chúng có thể giúp mọi tranh cãi (như tại Kosambī) chấm dứt ngay tức khắc, nhưng điều này không có nghĩa là vị Tỳ-kheo chỉ cần nghe xong chúng là sẽ đắc quả Thánh A-la-hán ngay tức thời, nhất là chỉ nghe một câu kệ!

Bởi lẽ, nhờ pháp sơ thiện các lậu hoặc có thể được đoạn tận ngay tức khắc nhưng tương lai chúng còn sanh khởi hay không lại là chuyện khác. Do vậy mới cần phải có “pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa có văn hoàn toàn đầy đủ”. 

Lại nữa, bên cạnh 37 Phẩm Trợ Đạo còn cần phải có Thánh Giới Luật Pātimokkha, cần phải có Định Niệm Hơi Thở, cần phải có Thân Hành Niệm, cần phải có Vô Tướng Tâm Định, cần phải có Chỉ Quán song hành, cần phải có Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát v..v… và v..v...

Chính vì lẽ đó, trong chánh kinh Pārileyya và toàn bộ kinh tạng Nikaya hoàn toàn không có chuyện chỉ cần “Kệ ngôn vừa dứt, năm trăm vị Tỳ-khưu đều đắc quả A-la-hán” như chú giải của ông luận sư Bà-la-môn Phật Âm.

Thêm nữa, hẳn Phật Âm và những ai tin theo vị luận sư Bà-la-môn này không biết hoặc cố tình quên lời dạy của Đức Phật trong chánh kinh Canki, Trung Bộ 2, số 95: “Này Bharadvaja, chính nhờ luyện tập, tu tập và hành tập nhiều lần, chân lý mới được chứng đạt. Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là chứng đạt chân lý, cho đến như vậy, chân lý được chứng đạt, cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương sự chứng đạt chân lý”?

Như một sự nhất quán, trước sau không thay đổi, trong Kinh Phật Tự Thuyết còn xác định rõ hơn: “Cũng vậy này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình.

Này Paharada, vì rằng trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhứt. Do thấy vậy, thấy vậy, Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này (Ud 51).

Lại nữa, chắc chắn Phật Âm Bà-la-môn hoàn toàn bị thiếu vắng chánh trí tuệ và không biết trí tuệ được hình thành như thế nào mới sáng tác kiểu “hoát nhiên đại ngộ” như vậy. Bởi lẽ chính Đức Thế Tôn đã dạy rõ trong Kinh Kìtàgiri, Trung bộ 2:

“Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ.

Nếu ai đó còn phân vân giữa A-la-hán đạo và A-la-hán quả, hãy đọc kỹ bài kinh Canki để thấy rằng dù Giác ngộ chân lý (chứng đạo) hay Chứng đạt chân lý (chứng quả) đều đòi hỏi phải có những quá trình tương ứng nhất định.

Và vì thế, nếu có sự chứng đắc thù thắng thì cũng phải theo trình tự như sau: “nếu được giảng dạy buổi chiều thời chứng được sự thù thắng buổi sáng, nếu được giảng dạy buổi sáng, thời sẽ chứng được sự thù thắng buổi chiều” (Kinh Vương Tử Bồ-Đề, số 85, Trung Bộ 2). Chứng đắc “sự thù thắng” còn phải như thế, huống hồ đối với Thánh đạo quả A-la-hán lại càng không có sự “thể nhập chánh trí thình lình”.

Trong những chuyện Tiền Thân Đức Phật đáng tin cậy thuộc Tiểu Bộ, có rất nhiều bài kinh với phần kết luận giống nhau khi cho các tu sĩ hoặc cư sĩ chứng đạt Thánh quả tùy theo nhân quả của họ.

Tuy mọi trường hợp thành tựu đều được ghi nhận là sau khi được nghe Đức Phật thuyết pháp, nhưng tất cả đều phải tuân theo một nguyên tắc chung đó là: sau khi Tứ Diệu Đế được Phật giảng dạy và được thực thi nghiêm chỉnh. Những ai hiểu Bốn Chân Lý của bậc Thánh đều hiểu rằng nó không phải là chuyện thần thoại, chỉ cần vung tay phù phép là có ngay tất cả.

Chính vì lẽ đó, nếu các chuyện Tiền Thân có những câu kết luận theo kiểu “Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo chứng quả tối cao A-la-hán”, thì chúng cần phải được nhận thức rõ ràng rằng: để đi tới “cuối bài giảng Tứ Diệu Đế” vị Tỳ-kheo ấy mới chứng được quả tối cao A-la-hán, và vì vậy chắc chắn nó không phải là chuyện hoát nhiên đại ngộ trong một “sát-na tâm”.

Một người tu Phật hiểu rõ quá trình này sẽ thấy không có gì mâu thuẫn khi trong phần kết bài kinh Sáu Sáu (Trung Bộ 3) đã ghi rõ:

“Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ”.

Trong khi nghe pháp mà hoan hỷ tín thọ lời Phật dạy và nhờ thế đạt được giải thoát lậu hoặc, không có chấp thủ (ngay trong lúc ấy) là chuyện hoàn toàn dễ hiểu.

Hơn nữa giải thoát các lậu hoặc, không chấp thủ trong khi nghe pháp không có nghĩa là chứng đắc A-la-hán. Thật vậy, một người trong lúc đặt cả thân tâm chăm chú nghe nhạc, dù ngay lúc đó họ không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu nhưng không có nghĩa là người ấy đã thanh tịnh được năm giới.

Cũng trong Chánh kinh Nguyên thủy Nikaya, chỉ có chuyện một Tỳ-kheo sau khi đã giữ giới hạnh thanh tịnh, thực hành đúng theo lời dạy của Phật, một mình an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Và không bao lâu, Tôn giả chứng được mục đích tối cao mà các Thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến”.

Giữa “một mình an tịnh... không bao lâu” và “hoát nhiên đại ngộ tập thể” là cả một khoảng cách xa xôi mà những ai không am tường lời dạy của Phật sẽ dễ dàng rơi vào cạm bẫy của các tay tổ gián điệp ngoại học, để rồi không nhận thức rõ sự vi diệu chưa từng có thứ nhất của Chánh Pháp và từ đó thiếu vắng sự thích thú chân chính trong Pháp và Luật của Đấng Như Lai.

Hơn thế, dù các Tỳ-kheo có cao siêu đến đâu chăng nữa, dù “Ba-la-mật” của họ có viên mãn đầy đủ như thế nào chăng nữa, chắc chắn họ cũng không thể vượt qua Đức Phật, trong khi bản thân Ngài cũng phải mất ba canh để chứng đạt đạo quả viên thành.

Ngay cả trường hợp chứng đắc đặc biệt của ngài A-nan cũng cần nhận định rõ. Vị Thị giả có trí nhớ siêu việt luôn cận kề và được trực tiếp nghe biết bao nhiêu lần “kệ ngôn vừa dứt”, nhưng cũng phải mất trọn một đêm với tất cả sự nỗ lực tinh tấn cuối cùng mới thành đạt đạo quả nhằm thực hiện trọn vẹn thánh vụ trùng tuyên Kinh điển trong kỳ kết tập lần thứ nhất.

Cũng cần nói rõ thêm, trong Trưởng Lão Tăng Kệ, chính ngài Ananda đã bộc bạch:

“Trải hai mươi lăm năm

Ta chỉ là hữu học,

Dục tưởng không khởi lên,

Hãy xem pháp, pháp tánh”

(Thera 91, kệ số 1040).

Một Thánh Tăng dù còn là hữu học nhưng suốt hai mươi lăm năm không còn khởi dục tưởng, tâm thanh tịnh diệu hạnh, do vậy việc Ngài A Nan có chứng A-la-hán sau một đêm nỗ lực, xét cho cùng cũng không phải đơn giản theo kiểu “nghe xong chứng liền” như của chú giải. 

Chỉ có những ai tâm chưa thanh tịnh, vì giới chưa thanh tịnh, nên tri kiến không thanh tịnh mới tin theo các tổ sư gốc Bà-la-môn, để rồi tin luôn kiểu tà chứng “hoát nhiên đại ngộ” của họ. Kết quả của tà tín ấy khiến tu hành mới chỉ được vài năm, nhưng ngóng mãi vẫn không thấy bỗng nhiên giác ngộ, tất phải đi đến tình trạng chán nản buông lung “Nhất niên Phật tại tiền. Nhị niên Phật thăng thiên. Tam niên bất kiến Phật”.

- Này Sāriputta, như thế thì ngươi nên cho chỗ trú ngụ cách biệt.

- Bạch ngài, nếu không được cách biệt thì nên thực hành như thế nào?

- Này Sāriputta, như thế thì nên làm thành cách biệt rồi giao cho. Này Sāriputta, nhưng không vì bất cứ lý do gì mà Ta nói rằng: “Được xâm phạm chỗ trú ngụ của vị Tỳ-khưu thâm niên hơn”, vị nào xâm phạm thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

- Bạch ngài, nên thực hành như thế nào về tài vật?

- Này Sāriputta, tài vật nên được chia phần đồng đều cho tất cả”.

Trước đó, khi được mọi người hỏi cần phải có thái độ như thế nào đối với “các vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng”, Đức Phật đã chỉ dạy rất rõ ràng cụ thể, hợp tình hợp lý cho từng đối tượng một.

_ Với ngài Xá-lợi-phất và các Thánh Tăng A-la-hán: “- Này Sāriputta, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp (Trong tạng Luật, Đức Phật còn chỉ dạy rất rõ ràng thế nào là đúng Pháp và sai Pháp).

_ Với bà Gotami: “- Này Gotamī, như thế thì bà hãy nghe Pháp ở cả hai bên; sau khi nghe Pháp ở cả hai bên, các Tỳ-khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì bà hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy. Và bất cứ điều gì hội chúng Tỳ-khưu ni cần mong mỏi từ hội chúng Tỳ-khưu thì nên mong mỏi tất cả các điều ấy từ các vị nói đúng Pháp”.

_ Với các gia chủ như ông Anāthapindika và bà Visākhā: “- Này gia chủ, như thế thì ngươi hãy nên dâng vật cúng dường cả hai bên; sau khi dâng vật cúng dường rồi hãy nghe Pháp cả hai bên; sau khi nghe Pháp cả hai bên, các Tỳ-khưu bên nào là các vị nói đúng Pháp thì hãy thuận theo quan điểm, niềm tin, khuynh hướng, và lập luận của các vị ấy”.

(Qua những lời dạy trên càng chứng tỏ hai nhóm tranh chấp tại Kosambī không phải là hai nhóm Luật sư và Pháp sư như chú giải của Phật Âm. Nếu mọi người “nghe Pháp ở cả hai bên” thì nhóm Luật sư làm sao bằng được nhóm Pháp sư?)

Đương nhiên với sự hành xử đúng Pháp và cao thượng của Đức Thế Tôn, cuối cùng cuộc tranh chấp đã được giải quyết một cách tốt đẹp nhất cho tất cả mọi phía. Và cũng tất nhiên, kết cuộc trọn lành này đã không được nêu lên trong chú giải của Phật Âm Bà-la-môn.

Rõ ràng chỉ có những đầu óc mê mờ mù quáng tin càn, không còn muốn ghi nhớ lời Phật trong chánh Kinh - chánh Luật, không còn nhận thức rõ danh xưng cao quý Minh Hạnh Túc của Phật mới có thể chấp nhận và xem những luận giải thâm độc như trên của Bà-la-môn Phật Âm ngang hàng Thánh điển.

Đến đây lại xin sám hối với Đức Thế Tôn vì phải dùng chính những lời dạy cao quý của Ngài để chú thích cho những điều tự giải ngụy tạo của Bà-la-môn Phật Âm nhằm thấy rõ ý đồ phá hoại Phật pháp ngầm của ông ta:

“Ở đây, này Upāli, các Tỷ-kheo

1. thuyết phi pháp là pháp;

2. thuyết Pháp là phi pháp;

3. thuyết phi luật là luật;

4. thuyết Luật là phi luật;

5. thuyết điều Như Lai không nói, không thuyết, là điều Như Lai nói, Như Lai thuyết;

6. thuyết điều Như Lai có nói, có thuyết, là điều Như Lai không nói, không thuyết;

7. thuyết điều Như Lai thường không sở hành là điều Như Lai thường sở hành;

8. thuyết điều Như Lai thường sở hành là điều Như Lai không thường sở hành;

9. thuyết điều Như Lai không chế đặt là điều Như Lai chế đặt;

10. thuyết điều Như Lai có chế đặt là điều Như Lai không có chế đặt.

Chính do mười sự này, họ phá hoại, họ chia rẽ, họ hành bất động yết-ma, họ tuyên đọc giới bổn Pātimokkha khác biệt. Cho đến như vậy, này Upāli, là chúng Tăng bị phá hoại” (Tăng Chi 4, chương 10, kinh số 35)

Vâng, kính bạch Đức Thế Tôn, đúng như điều Ngài đã cảnh báo, chính các Tỳ-kheo xuyên tạc Pháp, xuyên tạc Luật, xuyên tạc Đức Thế Tôn. Các Tỳ-kheo ấy là ai?

Họ chính là các “Tỳ-kheo” giả dạng, họ chính là các gián điệp ngoại học đội lốt Phật tử.

Họ cũng là các Tỳ-kheo tin bừa các “Tỳ-kheo” gián điệp.

Họ cũng là các Tỳ-kheo thối đọa không còn đủ trí tuệ nhận biết đâu là chánh, đâu là tà; đâu là thật, đâu là giả.

Chính họ phá hoại chúng Tăng, chính họ chia rẽ chúng Tăng, chính họ là những con trùng thực sư tử nhục.

Đáng sợ thay, với họ địa ngục Vô gián cho tội phá hòa hợp Tăng không sao tránh khỏi!

Ở đây, ông “Tỳ-kheo” gián điệp phá hoại chúng Tăng, không ai khác hơn chính là Phật Âm - Buddhaghosa. Và những “Tỳ-kheo” thuyết phi pháp, phi luật chính là những ai đã nhắm mắt tin theo ông luận sư gốc Bà-la-môn này.

Như đã nhận định ở phần đầu, nếu đọc kỹ lưỡng cẩn trọng các tài liệu trong chánh tạng sẽ thấy rõ ngay phần luận giải của luận sư Bà-la-môn không những đã không giải chú được một điều gì hay hơn, trái lại đã lược bỏ rất nhiều các sự kiện quan trọng có ý nghĩa tích cực và còn thêm vào nhiều chi tiết mang tính chất vu khống, xuyên tạc thâm hiểm.

Chỉ trong một bài “chú thích tự giải” dài vài chục trang nhưng đã có biết bao những bất cập đáng nghi ngờ với nhiều thâm ý hiểm độc như vậy, thử hỏi cả một bộ chú giải Kinh Pháp Cú, Kinh Trung Bộ, Trường Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng, Tiểu Bộ, Luật Tạng, Thánh Pháp Tạng, Thanh Tịnh Đạo... vị luận sư gốc Bà-la-môn Phật Âm còn dẫn những người tin theo ông ta đi xa tới đâu?


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

  124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT! Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết...