87-CON NGỰA THÀNH TROY/ 7
5) Cài
thêm tay sai và truyền thống phỉ báng thấu cáy
Như sợ rằng
sự vẽ vời thêm cho hình tượng voi chúa vẫn chưa đủ sức mạnh xuyên tạc, vị luận
sư Bà-la-môn còn chế tác thêm hẳn một tên tay sai khác nữa, đó là con khỉ chúa
cũng khôn lanh không thua gì Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa
Ân.
Với thủ thuật
đạo diễn của Bà-la-môn Phật Âm, khỉ chúa cũng biết đem mật ong về cung phụng
cho Đức Bổn Sư để nhân đó vị luận sư Bà-la-môn có dịp “dụ khị” và “xỏ mũi” những
đọc giả nhẹ dạ:
“Khỉ chúa
đứng chờ coi Đức Bổn Sư có thọ dụng ổ mật đó không. Nhưng nó chỉ thấy Ngài cầm
lên và để xuống chứ không dùng. Khỉ ta tự hỏi: “Có cái gì đây?” nó bèn cầm lấy
nhánh cây có tổ ong lên, lật qua lật lại xem thật kỹ, thì thấy còn sót trứng
ong trong tổ, nó bèn cẩn thận gạt bỏ hết trứng ong, rồi dâng mật lại Đức Bổn
Sư. Lần này Ngài thọ lãnh và thọ dụng” (trang 115).
Rõ ràng chỉ
có loài vượn cổ “ăn lông ở lỗ” mới không biết rằng “gạt bỏ hết trứng ong” là
không phải sát sanh, và để kẻ khác gánh lấy tội sát sanh trước mắt mình cho
mình thọ hưởng, đó không phải là hành vi của bậc Chân Nhân chứ đừng nói gì của
Đấng Như Lai Chánh Đẳng Giác. Và cũng chỉ có những kẻ xem thường giới luật về
thọ thực ăn một ngày một bữa không ăn phi thời mới không phát hiện ra món “mật
ngọt chết ruồi” của Bà-la-môn Phật Âm thực ra là phi pháp.
Bởi thế,
theo bối cảnh của chú giải, người thọ dụng món mật ong của luận sư Bà-la-môn
không những đã phạm luật “tam tịnh nhục” mà còn phạm giới ăn phi thời. Những ai
nghiên cứu kỹ chánh Kinh, chánh Luật đều nhận thấy Đấng Thế Tôn Chánh Đẳng Giác
luôn luôn thể hiện sự Minh Hạnh Túc, kỹ lưỡng, chuẩn mực đến từng chi tiết một
cách hết sức vi tế; thế nhưng qua ngòi bút của Bà-la-môn Phật Âm, Ngài lại quá
dễ duôi, phóng túng đến độ… không sao tin nổi!
Thế nhưng,
khốn thay điều vu khống này đã dễ dàng được chấp nhận qua hàng ngàn năm. Nguyên
nhân là do những người tin chú giải đã không chịu ghi nhớ kỹ Chánh Kinh – Chánh
Luật và so sánh cẩn trọng với luận giải, để thấy rõ thế nào là từng hành vi, từng
lời nói, từng ý nghĩ rất cặn kẽ, rất kỹ lưỡng, không một chút sơ hở của một Bậc
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc; cho nên họ mới dễ dàng tin có một “Đức
Bổn Sư” của Phật Âm dễ duôi đến như vậy.
Hơn thế nữa,
khi những tín đồ đã bị che mắt bởi “lá bùa Thánh Tăng Phật Âm”, thời họ còn trí
tuệ đâu để thấy được sự lươn lẹo, thấu cáy của một ông luận sư ngoại học thâm
hiểm.
Thật vậy, một
người am tường kinh điển Nikaya sẽ thấy ngay ngọn bút của Phật Âm Bà-la-môn chẳng
khác gì ngọn lưỡi móc mỉa thấu cáy quen thuộc của các ông Bà-la-môn đương thời
đức Phật. Kinh văn Nguyên thủy đã tinh tế nhắc nhở rất nhiều lần kiểu đòn xóc
hai đầu này. Họ đang “ca ngợi” đấy nhưng hãy coi chừng, đằng sau nó là những
cái móc!
Hãy suy nghĩ
kỹ lời “tán thán” của họ được kinh văn gốc ghi lại thường xuyên như những lời
nhắc nhở: “Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người
dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín…” Những
gì đã bị quăng ngã xuống lại được dựng đứng lên? Chẳng lẽ là xác chết? Những gì
bị che kín lại được phơi bày ra? Chẳng lẽ…
Hẳn nhiên
trong kinh văn gốc cũng có nhiều người chân chánh vinh danh “Tôn giả Gotama”
như vậy, nhưng không phải tất cả đều như vậy. Và đây chính là điều kinh văn gốc
muốn lưu ý những người con Phật. Cuộc sống muôn vẻ và con người cũng muôn mặt,
chê và khen cũng vậy. Có những lời chê bai do ganh ghét, tị hiềm; nhưng cũng có
những lời phê bình thiện chí, xây dựng. Có những lời khen thật lòng tán thán,
nhưng cũng có những lời khen do muốn lừa gạt hoặc mỉa mai thấu cáy.
Người con Phật
nhận định rõ điều này sẽ dễ dàng phát hiện các kinh văn ngụy tạo với phần đầu
ca ngợi Đức Phật khiến người đọc dễ tưởng lầm là kinh “Phật giáo”, nhưng sau đó
mới khéo léo cài vào những hý luận phi pháp, phi luật. Chính vì thế việc suy
xét kỹ lưỡng để phân biệt thật giả, tốt xấu, đúng sai phải được đặc biệt cẩn trọng,
nhất là trong cuộc đấu tranh ý thức hệ tôn giáo.
Những người
con Phật với sự cẩn trọng, không tin bừa, mới thấy được những giả trá thâm độc
của ông luận sư Bà-la-môn Phật Âm. Xét kỹ những chú giải của Buddhaghosa sẽ thấy
ông luận sư Bà-la-môn sống sau Phật một ngàn năm cũng không chịu
thua kém các tiền bối của mình trong việc ca ngợi Đức Phật giả tạo để đánh lừa
con Phật, từ đó mới xỏ xiên xuyên tạc Tam Bảo một cách ác ý. Nếu đọc các tác phẩm
của các luận sư gốc Bà-la-môn khác với sự cảnh giác cao độ, người đọc còn phát
hiện thêm nhiều những đòn chống phá ngấm ngầm khác nữa.
Rõ ràng, qua
những gì được mô tả trong chú giải, không phải vô ích khi vị luận sư Bà-la-môn
đã mất công vẽ thêm hình ảnh voi chúa, khỉ chúa phục vụ Đức Bổn Sư. Chúng có vẻ
“vinh danh” Đức Thế Tôn đấy, nhưng kỳ thực lại phơi bày tấm lòng vị tha đạo đức...
giả của Ngài.
Đáng buồn
thay, trong nhiều chùa, người ta vẫn cứ phô bày nhan nhản hình ảnh voi chúa, khỉ
chúa phủ phục cúng dường Đức Thế Tôn. Thậm chí nhiều kẻ còn tự hào xem đấy như
một biểu tượng của sự thần thánh hóa vinh danh Đức Bổn Sư.
Chỉ bấy
nhiêu thôi cũng đủ biết các trụ trì chùa ấy cũng đã bị các tay sai của Phật Âm
Bà-la-môn dụ dỗ xỏ mũi dắt đi xa tới đâu. Một khi mọi người cứ vô tư đua nhau
in hình khỉ chúa, voi chúa hầu hạ Đức Thế Tôn là chính họ đã vô tình tiếp tay
cho Phật Âm Bà-la-môn vu khống chính Bậc Đạo Sư đáng kính của mình mà không biết.
Nhưng… cũng
biết đâu chừng nhờ các công trạng ấy mà những kẻ mê tín sẽ được giống như voi
chúa và khỉ chúa của Phật Âm, cuối cùng cũng được ông Bà-la-môn này ban cho chết
một cách thảm thương và bay lên chín tầng mây hưởng lạc thú như trong chú giải
còn ghi rõ.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét