86-CON NGỰA THÀNH TROY/ 6
4) Thủ đoạn
dùng vũ khí người để giết người
Không dừng lại
ở đó, hình ảnh tương phản về vị Thày Trời Người một mình an vui sung sướng còn
các đệ tử “ráng sống lây lất cực khổ lắm” càng được ông luận sư
Bà-la-môn tô đậm nét hơn bằng sự thần hoá một cách phi thực sự hầu hạ của voi
chúa cùng những chủ đích bất thiện khác.
Thật vậy, nếu
trong chánh tạng hình tượng voi chúa được Đức Thế Tôn nêu lên như một biểu tượng
cao quý để ca ngợi đời sống độc cư thanh tịnh, ngược lại dưới ngòi bút của Phật
Âm Bà-la-môn, nó đã trở thành một công cụ phục vụ cho nếp sống vương giả, đến độ
nếu không có thì thà... sống một mình (?)
Hãy đọc kỹ
đoạn đối thoại tự chế sau đây của luận sư Bà-la-môn giữa chư Tăng và Đức Phật để
thấy rõ hơn dụng ý mỉa mai của tác giả:
“ - Bạch
Thế Tôn! Ngài là một vị Phật Chí Tôn, một vị Vương tối thượng, lá ngọc cành
vàng, mà ở rừng suốt ba tháng hạ, không người hộ độ, dâng nước hầu cơm khi ngồi,
khi đứng, khuya sớm một mình chắc là cực khổ lắm!
Nghe vậy,
Đức Bổn Sư đáp:
- Nầy các
Tỳ khưu! Đã có tượng chúa Pàlileyyaka làm hết mọi việc cần thiết giúp Ta, nếu
ai có được bạn đồng cư như Tượng chúa nầy, người ấy có thể vui sống chung, bằng
không được vậy thì sống lẻ loi cô độc còn hơn” (trang 118).
Trong khi Luật
Tạng chỉ ghi rõ voi chúa phục vụ Đức Thế Tôn “nước uống, nước rửa, và dọn
sạch cây cỏ”, và cũng vậy, trong kinh Phật Tự Thuyết: “Rồi con voi ấy, rời
khỏi đàn voi, đi đến Pàlileyyaka, tại khóm rừng Rakkita, ở gốc
cây sàla Bhadda. Tại đấy, con voi ấy tại chỗ nào Thế Tôn ở, tại chỗ ấy nó
dọn sạch cỏ với cái vòi của mình, đem nước uống, đồ ăn để Thế Tôn dùng” (Ud.41). Thế
nhưng trong chú giải của Phật Âm, voi chúa siêu đẳng hơn nhiều: nó biết đốt lửa,
nấu nước cho Phật tắm hằng ngày, và sau khi Phật tắm xong, voi còn biết cúng dường
trái cây rồi tới giờ Phật mới đi khất thực.
Phải chăng
khi thêm vào sự kiện này Phật Âm Bà-la-môn muốn “chú giải” rằng thực ra một vị
Minh Hạnh Túc dù chế giới cấm các đệ tử đốt lửa, nhưng khi không còn ai vẫn một
mình an nhiên hưởng lạc thọ vương giả, cho dù kẻ khác có vi phạm giới luật để
phục vụ cho mình? thậm chí có thể làm chết các chúng sanh trong đó? Phải chăng
nhờ có ngòi bút chú giải của Bà-la-môn Phật Âm nên mọi người mới biết thêm rằng:
vị Đạo Sư khi chỉ còn một mình cũng... lén ăn phi thời như người thường?
Không chỉ có thế, Bà-la-môn Phật Âm còn phóng tâm xa hơn về quá khứ,khéo léo bịa
đặt thêm giới luật khi luận giải rằng: “Tượng chúa nghĩ thầm: “Nếu
vị nầy thông hiểu Giới Luật...” để sau đó Phật Âm Bà-la-môn chú giải
thêm một giới cấm thủ: “(những vị Tỳ khưu hiểu luật không bao giờ để đồ
đạc của mình lên chỗ ngồi, chỗ nằm của các bậc Thầy Tổ)” (trang 117)
Xin hỏi: Chẳng lẽ luận sư Bà-la-môn Phật Âm có tha tâm thông như Đức Phật hay
sao lại biết được tâm tư của một con thú rừng sống trước mình hàng ngàn năm và
lại thông hiểu cả giới luật của Tăng đoàn? Phải chăng để đồ đạc lên chỗ nằm ngồi
của Thầy Tổ là làm dục ái gia tăng trưởng, làm thiện pháp suy giảm, ác pháp
tăng trưởng?
Hay đây
chính là hình thức bái vật một cách mê tín, không xem trọng phẩm hạnh và trí tuệ,
của một số hội chúng ngoại học mà Phật Âm Bà-la-môn muốn đưa vào trong Đạo Phật?
Trong Pātimokkha có điều khoản nào quy định như Phật Âm không? Hẳn nhiên là
không! Vì sao? Vì mọi tỳ khưu đều phải hiểu rằng không nên để bừa bãi đồ đạc của
mình nơi chỗ của người khác, chứ đừng nói gì chỗ của Thầy Tổ, và cho dù có vị
nào sơ ý thì chỉ cần nhắc nhở là xong, chính vì thế đây không phải là vấn đề phổ
biến trong Tăng chúng đến độ phải chế thành điều luật.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét