85-CON NGỰA THÀNH TROY/ 5
3) Luận giải phải y kinh, chú giải phải y chứng
Trước hết,
việc xác định tính chân thực của lý do tranh chấp trong Tăng chúng tại Kosambī
hãy để hạ hồi phân giải. Ở đây tạm chấp nhận sự kiện phân hóa ở Kosambī đúng
theo câu chuyện trong Tiểu Bộ đã phản ảnh và lấy đó so sánh với sự mô tả trong
chú giải của Phật Âm, được nhiều người xem ngang hàng Thánh điển, có thể thấy
rõ vị luận sư Bà-la-môn đã phóng tay đi quá xa trong việc bôi đen thêm sự kiện
này.
Trong chú giải
của Phật Âm không những đã có nhiều khác biệt vô căn cứ mà còn trần trụi thô kệch
theo kiểu phàm phu tục đế: “vị Pháp sư đi đại tiện trong cầu xí, rửa
ráy xong đi ra,... Kế đó, vị Luật sư đi cầu...”(Sđd, trang 107). Nếu một sự kiện nhỏ cũng
dẫn đến một tranh chấp lớn, thì ở đây một chi tiết nhỏ cũng có thể khắc họa một
sự việc không nhỏ, qua đó đã chứng tỏ kiểu “tam sao thất bổn”, phù phép cải
biên một cách thô lậu của một tác giả sống sau Phật cả ngàn năm. Xin nhắc lại,
một chú giải được nhiều người xem ngang hàng Thánh điển không cho phép tác giả
và người đọc được dễ dãi tùy tiện như vậy.
Không chỉ có
thế, nếu người học Phật cẩn trọng đi sâu vào phân tích và so sánh cụ thể, sẽ thấy
câu chuyện tranh cãi ở Kosambī được tác giả Phật Âm Bà-la-môn khai thác với nhiều
dụng ý thâm độc khác nữa.
Một đàng qua
sự mô tả trong chánh Kinh và chánh Luật, người đọc dễ dàng nhận ra sự cố chấp,
ương ngạnh của các Tỳ-kheo ở Kosambī trước những lời phân tích chỉ dạy thấu lý
đạt tình của Đức Thế Tôn. Nhưng ngược lại, trong chú giải của Phật Âm, sự kiện
này đã được mô tả theo chiều hướng bất lực của Đức Phật trước sự việc tranh chấp,
đến độ Bậc Thầy Trời Người đành phải “tự nghĩ” một cách tiêu cực như sau: “Các
Tỳ-kheo không vâng lời ta giáo hóa, tình trạng chia rẽ này chỉ làm ta bận rộn
hay là ta lánh xa nơi đô hội, một mình ra đi tìm chỗ tịnh cư” (Sđd, trang 111).
Với kiểu chú
giải “tự nghĩ” như trên, Phật Âm đã khiến người đọc chưa tin Phật dễ có cái
nhìn ngộ nhận về bậc Thiên Nhân Sư. Những ai tin vào ông Bà-la-môn này hoàn
toàn có cơ sở để nghĩ rằng đấng Điều Ngự Trượng Phu thực ra cũng chỉ là một người
ích kỷ chỉ nghĩ đến an lạc cho riêng mình khi đã bó tay trước các đệ tử (?)
Nhưng thực
hư sự ra đi này thế nào? Lý do chính yếu nào đã khiến Đức Thế Tôn rời bỏ
Kosambī? Đức Phật thực sự đã nghĩ gì? Đọc kỹ đoạn chánh kinh trong Phật Tự Thuyết
sau đây sẽ rõ:
“Như vầy tôi
nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Kosambī, tại khu vườn Ghosita.
Lúc bấy giờ
Thế Tôn sống bị các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các vua,
các đại thần của vua, các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo quấy rầy, bị quấy rầy
nên phiền toái, không có thoải mái an ổn. Rồi Thế Tôn suy nghĩ như
sau: "Nay Ta sống bị các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ,
các vua, các đại thần của vua, các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo quấy rầy, vì
bị quấy rầy nên phiền toái, không có thoải mái an ổn. Vậy Ta hãy sống một mình,
xa rời đại chúng".
Rồi Thế Tôn
vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Kosambī để khất thực. Khất thực ở Kosambī xong,
sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, liền dọn dẹp sàng tọa của mình, cầm y
bát, không nói cho thị giả biết, không báo cho chúng Tỷ-kheo biết, một mình
không có người thứ hai ra đi, bộ hành hướng đến Pàlileyyaka, tiếp tục
bộ hành và đi đến Pàlileyyaka. Tại đây, Thế Tôn sống ở Pàlileyyaka,
khóm rừng Rakkhita, dưới gốc cây Sàla Bhadda.” (Ud. 41)
Và ngay
trong chánh Luật, Đại Phẩm, đoạn [249], Đức Thế Tôn chỉ so sánh và tán
thán đời sống an tịnh một mình trong rừng Pārileyyaka với đời sống bị
phiền nhiễu bởi các Tỳ-kheo “thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ,
tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng”, chứ không
hề có ý nghĩ tiêu cực vì sự bất lực như chú giải của Phật Âm.
Đoạn chánh
Kinh và chánh Luật trên cho thấy lời chú giải của Phật Âm là hoàn toàn không
chính xác, không những thế nó còn tố cáo sự xuyên tạc của ông luận sư Bà-la-môn
là có ý đồ không tốt đối với Đức Thế Tôn, vị đã dành trọn cuộc đời đi bộ khắp
miền bắc Ấn Độ để thực hiện hạnh độ tha cao cả của mình.
Cũng căn cứ
theo chánh Kinh và chánh Luật đã dẫn chứng ở trên, ngay sau khi dạy bài kệ ngôn
trước hội chúng xong, Đức Phật liền đi đến làng Balakalonakara ân cần thăm hỏi,
giáo giới, khích lệ cho Tôn giả Bhagu. Sau đó Ngài lại tiếp tục du hành đến
Pacinavamsadaya quan tâm sách tấn và tận tình chỉ dạy cho nhóm Tôn giả Anuruddha,
Nandiya và Kimbila đang sống an vui hòa thuận nhau như “nước hòa với sữa”.
Tiếp đó, Đức
Phật mới du hành đến rừng Pārileyyaka, cư trú tại đó ba tháng với sự ca ngợi đời
sống an lạc nhờ độc cư thanh tịnh, và đi thẳng đến Sāvatthi chứ
không trở lại Kosambī. Xin khẳng định rõ hơn, trong các tài liệu liên hệ trực
tiếp đến sự kiện này, cũng như trong toàn bộ kinh tạng Nikaya, hoàn toàn không
có một chi tiết nào chứng tỏ bậc Thế Gian Giải có những suy nghĩ tiêu cực, yếm
thế, ích kỷ như trong chú giải của Phật Âm.
Rõ
ràng chính Phật Âm Bà-la-môn đã “tự nghĩ” như vậy để rồi gán cho Phật Thích Ca
nhằm mục đích khiến những người tin theo ông ta có cái nhìn lệch lạc về vị Bổn
Sư Minh Hạnh Túc.
Không còn
nghi ngờ gì nữa vì ngay nơi trang 113, Phật Âm Bà-la-môn đã bộc lộ rõ thâm ý của
mình khi mỉa mai “chú giải”: “Lúc ấy vì chưa mãn hạ, không thể đi sám hối
với Đức Bổn Sư nên các Tỳ-kheo phải ráng sống lây lất khổ cực lắm. Trái
lại, Đức Bổn Sư nhập hạ một mình trong rừng được an vui nhờ có Tượng
chúa Palileyyyaka hộ độ”.
Theo
chú giải của Bà-la-môn Phật Âm, vị tự xưng “Thầy Trời Người và Điều Ngự Trượng
Phu” thế nhưng lại trở thành tiêu cực, bất lực và thất bại trước đệ tử như thế
đó; và vị ân sư có lòng từ bi thương yêu chúng sanh và các đệ tử như chính
mình, thực ra đã nghĩ và sống ích kỷ đến như vậy!
Hẳn, những
ai đã tin vào Phật Âm và nhắm mắt dùng những chú giải của ông luận sư Bà-la-môn
này rao giảng đã không thể ngờ rằng chính mình đã mang tội phỉ báng Đức Thế Tôn
đến như thế nào!
Với những ai
chưa tin Phật, nếu chỉ đọc những chú giải trên của Phật Âm sẽ dễ dàng nhận thức
sai lầm về một ông Đạo sư bất lực và ích kỷ, vẫn nghiễm nhiên hưởng an vui sung
sướng một mình trong khi các đệ tử “phải ráng sống lây lất khổ cực lắm”.
Những
ai còn hoài nghi về điều này, họ hãy đọc kỹ lại Chánh Kinh và Chánh Luật để thấy
rõ Bậc Đạo Sư yêu thương chia sẻ với các đệ tử của Ngài như thế nào. Một Đấng
Giáo Chủ không nỡ bước lên tấm vải trắng vì còn nghĩ đến biết bao người nghèo
khó, cơm không đủ ăn, áo chưa đủ mặc (Kinh Vương Tử Bồ-Đề, số 85, Trung Bộ 2).
Một bậc
Đạo Sư dạy vị thí chủ hãy dâng cặp y mới cúng dường riêng Ngài cho chúng Tăng
(Kinh Phân Biệt Cúng Dường, số 142, Trung Bộ 3).
Một bậc
Ân Sư cùng với thị giả tự tay tắm cho người đệ tử suy kiệt không tự chăm sóc (Tạng
Luật, Đại Phẩm VIII.166).
Một vị
Thầy Trời Người không nỡ để chúng sanh bị xáo trộn, thương các đệ tử không có
thần thông biến hóa đi nơi khác, sẵn sàng ở lại vùng đói kém ăn lúa mạch thô y
như chúng đệ tử để gieo duyên hóa độ các chúng sanh đói khổ (Tạng Luật, Đại Phẩm,
Chương Verañjā).
Một Đức
Phật từ bi tối thượng như vậy, làm gì có chuyện một mình hưởng thụ ích kỷ trong
khi các đệ tử phải lây lất khổ sở như luận sư gốc Bà-la-môn Phật Âm vu cáo! Kẻ
vu khống phải mang tội vu khống, ai tin vào kẻ vu khống cũng không tránh
khỏi nghiệp báo do tin lầm tín bậy.
Ghi
chú của Nhị Tạng Vương:
Rõ ràng Phật Âm Bà-la-môn đã đóng tròn vai gián
điệp, cho nên các vị ‘Tỳ-khưu từ trong bụng mẹ’ đã không hề mảy may nghi ngờ. Ngay
khi Đức Phật còn hiện tiền, các ông Bà-la-môn như Verañja, Sonakāyana, Lohicca,
Paccaniikasāta, Pancasālā, Vassakāra, Sangarava, Assalayana, Uttara, Sanjaya,
Vekhanassa, Magandiya, Niganthaputta Saccaka, Ambattha, Subha Todeyyaputta,
Bà-la-môn ở Thūna... đều có ‘chủ tâm dẹp bỏ Phật giáo’. Họ bất
chấp mọi thủ đoạn, dùng mọi phương tiện kể cả việc trộm tướng mạo
Tỳ-khưu để thực hiện dã tâm của mình.
Do vậy, người thận trọng có nên một chiều tin theo mọi luận giải “vẽ vời” của một ông
Bà-la-môn ngoại đạo sống sau Phật một ngàn năm?

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét