Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

84-CON NGỰA THÀNH TROY/ 4

 

84-CON NGỰA THÀNH TROY/ 4

2) Đi tìm nguyên nhân phân hóa tại Kosambī và kẻ phá hòa hợp Tăng

Riêng trong phần chú giải Pháp Cú số 6, luận sư Bà-la-môn Phật Âm cũng có nêu lên tích các Tỳ-kheo ở Kosambī. Thế nhưng, một người đọc kỹ các tài liệu trong chánh Kinh và chánh Luật liên quan đến sự kiện này, có thể thấy ngay chú giải của Phật Âm không những không giải chú được điều gì hay hơn, trái lại đã lược bỏ rất nhiều các sự kiện quan trọng có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, bên cạnh đó còn thêm vào những chi tiết không trung thực với đầy những thâm ý nguy hiểm.

Để xác chứng cho nhận định nêu trên có thể căn cứ vào sáu nguồn tài liệu gốc liên quan trực tiếp đến sự kiện nổi cộm này, bao gồm:

(1) Bài kinh “Tùy Phiền Não”, Trung Bộ 3, số 128

(2) Kinh “Kosambīya”, Trung Bộ 1, số 48

(3) Kinh Phật Tự Thuyết (Ud.41)

(4) Chương X “Kosambī” thuộc Đại Phẩm - Luật Tạng

(5) Chương VII “Chia Rẽ Hội Chúng”, Tiểu Phẩm, Luật Tạng; và

(6) “Chuyện Giáo Hội Ở Kosambī” số 428 thuộc Chuyện Tiền Thân Đức Phật, Tiểu Bộ tập 1.

Trong các tài liệu trên, riêng Đại Phẩm của tạng Luật đã dành cả một Chương thứ mười phản ảnh biến cố này một cách rất cụ thể với nhiều ý nghĩa thiết thực. Ngay phần đầu của chương này đã nêu rõ sự phân hoá Tăng đoàn tại Kosambī là do có sự bất đồng ý kiến về việc phạt án treo một vị Tỳ-kheo.

Sự kiện được ghi lại nguyên văn trong chánh Luật như sau: ““[238] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Kosambī, tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ phạm tội. Vị ấy có quan điểm về tội ấy là có tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là vô tội. Vào một lúc khác, vị ấy có quan điểm về tội ấy là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:

- Này đại đức, đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?

- Này các đại đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy.

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đạt được sự hợp nhất và phạt án treo vị tỳ khưu ấy trong việc không nhìn nhận tội. Và vị tỳ khưu ấy là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm và đã nói điều này:

- Này các đại đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi...”

Chuyện bắt đầu chỉ có thế, nhưng sau đó Tăng chúng tại Kosambī bị phân hoá thành hai nhóm tranh chấp nhau kịch liệt!

Trước khi đi sâu tìm hiểu vấn đề cần lưu ý thêm, theo chánh Luật, vị Tỳ-kheo phạm tội chỉ lôi kéo các Tỳ-kheo thân thiết đồng quan điểm với mình, chứ không phải vị này là Pháp sư lôi kéo các học trò của mình. Và vị ấy “vì Pháp vì Luật” tranh chấp chứ không phải nhân danh nhóm Pháp sư mâu thuẫn với nhóm Luật sư như tài liệu sau này mô tả.

Tuy nhiên vấn đề cần đặt ra là vì sao chỉ từ một án phạt treo bình thường lại có thể dẫn đến sự tranh chấp rộng lớn trong Tăng đoàn? Đằng sau sự kiện này còn có một nguyên nhân sâu xa nào khác?

Như đoạn chánh Luật đã nêu rõ, vị Tỳ-kheo nọ đã phạm tội (về sau, chính vị này đã thừa nhận và cả Đức Thế Tôn cũng đã xác định là phạm tội, đoạn [258]), thế nhưng chính bản thân vị này lại có những ý kiến trái ngược nhau vào những lúc khác nhau, không những thế, các Tỳ-kheo khác cũng mâu thuẫn y như vậy. Tại sao có sự bất thường này?

Để giải nghi tường tận các thắc mắc trên, cần tham khảo thêm bài kinh Phạm Tội (Tăng Chi tập 2, chương 4, phẩm 25 “Sợ Hãi Phạm Tội”, trang 272-274) với nhiều chi tiết rất phù hợp với sự kiện tranh chấp ở Kosambī (Xem phần Tham khảo)

Trong bài kinh này Đức Thế Tôn, khi ấy cũng ở tại Kosambī, đã chỉ rõ nguyên nhân của sự phân hóa Tăng đoàn là “do thấy bốn lợi ích này, kẻ ác Tỷ-kheo thích thú với phá hòa hợp Tăng”: do theo ác giới, do có ác kiến, do nuôi sống bằng tà mạng và do tham muốn lợi dưỡng, tham muốn cung kính, tham muốn không bị khinh miệt nên gây sự phá hoại chúng Tăng; và vì kẻ ác Tỳ-kheo nghĩ rằng “nếu họ hòa hợp, họ sẽ làm hại ta; nếu họ chia rẽ, họ sẽ không làm hại được ta”.

Đến đây một câu hỏi đặt ra: Vậy ai là kẻ ác Tỳ-kheo thích thú với việc phá hòa hợp Tăng ở Kosambī mà Đức Phật đã nói đến? Phải chăng chính là vị Tỳ-kheo phạm tội trong chương “Kosambī”? Hoàn toàn không đúng, vì chính tạng Luật đã nói rõ “vị tỳ khưu ấy là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập”. Một vị như vậy không thể nào vì một án treo lại đi phá hoà hợp tăng để phải mang tội vô gián. Vậy, còn người nào khác nữa?

Căn cứ vào bài kinh “Kakudha”, Tăng Chi tập 2, chương 5, phẩm Kakudha, tr. 507-513, có thể giúp xác định được nghi phạm. Trong bài kinh này đã ghi lại lời dạy của Đức Thế Tôn lúc Ngài cũng ở tại Kosambī về năm bậc Đạo sư ở đời, nhân sự kiện Tôn giả Mục Kiền Liên thông báo về ý muốn lãnh đạo chúng Tăng của Đề Bà Đạt Đa. Như nhiều người đều biết, chính từ tham vọng này đã khiến Đề Bà Đạt Đa trở thành kẻ phá hòa hợp Tăng tiêu biểu đầu tiên trong Phật giáo.

Rõ ràng hơn nữa, trong Tiểu Phẩm, chương 7 “Chia Rẽ Hội Chúng”, lúc Đức Thế Tôn cũng ở tại Kosambī trong tu viện Ghosita, Tạng Luật này đã phản ảnh đầy đủ dã tâm và hành vi phá hoà hợp Tăng của Devadatta. Cụ thể như hai đoạn nguyên văn dưới đây:

“[348] Sau đó, đức Thế Tôn khi đã ngự ở Anupiyā theo như ý thích đã lên đường đi về phía thành Kosambī. Trong khi tuần tự du hành Ngài đã ngự đến thành Kosambī. Tại nơi đó, trong thành Kosambī, đức Thế Tôn ngự ở tu viện Ghosita.

[349] Khi ấy, Devadatta trong lúc độc cư thiền tịnh đã có ý nghĩ suy tầm như vầy sanh khởi: ‘Ta nên làm cho ai tin tưởng để khi người ấy đã đặt niềm tin nơi ta rồi thì nhiều lợi lộc và vinh hiển có thể phát sanh?” Sau đó, điều này đã khởi lên cho Devadatta: “Hoàng tử Ajātasattu này còn trẻ và có tương lai rạng rỡ. Hay là ta nên làm cho hoàng tử Ajātasattu tin tưởng để khi vị ấy đã đặt niềm tin nơi ta rồi thì nhiều lợi lộc và vinh hiển sẽ phát sanh?’”

Sau đó, chánh Luật đã ghi lại những sự kiện giống như bài kinh “Kakudha” trong Tăng Chi.

(Ghi chú: Theo tài liệu về “45 mùa hạ của Đức Phật” được lưu hành trên Internet (tài liệu này không ghi rõ căn cứ theo Kinh và Luật nào, NTV) cho thấy: chỉ có ba lần hạ Đức Phật ở tại Kosambī: hạ thứ sáu (523 TCN), hạ thứ chín (520 TCN) và hạ thứ mười (519 TCN). Trong lần thứ nhất, Đức Phật ở tại đồi Mankula thuộc Kosambī, xứ Vamsa để thu phục và giáo hóa các ngoại đạo. Lần thứ hai, nhân khi bà thứ hậu Magandhiya của vua Udena oán hận và vu cáo Đức Phật, Ngài đã dạy tôn giả A-nan về hạnh kham nhẫn. Chỉ trong lần thứ ba, kỳ hạ thứ mười ở Kosambī, mới có sự kiện xảy ra tranh chấp chia rẽ chúng Tăng và Đức Phật vào rừng Pārileyyaka sống một mình).

Kết hợp các tài liệu trong chánh Kinh và chánh Luật cho thấy: sự kiện “Chia Rẽ Hội Chúng” tại Kosambī hoàn toàn có khả năng do Đề Bà Đạt Đa gây ra. Chính Đề Bà Đạt Đa đã nhân sự kiện vị Tỳ-kheo phạm tội để kích động gây chia rẽ trong Tăng chúng nhằm đạt được lợi ích riêng tư của ông ta đúng như trong bài kinh Phạm Tội đã nêu. Chỉ có sự thâm độc và nham hiểm của Đề Bà Đạt Đa mới có thể khiến cho một vị Tỳ-kheo rành rẽ về Pháp, về Luật, hạnh kiểm tốt đẹp và cả chúng Tăng cũng phải mâu thuẫn với chính mình để rồi chống báng lẫn nhau.

Thiết nghĩ đây là nhận định có cơ sở với những chứng cứ thuyết phục. Tuy vậy, vấn đề này xin dành cho các sử gia, những người biết đặt chứng cứ lên trên đức tin. Bài viết này không nhằm mục đích xác định rõ vị ác Tỳ-kheo phá hòa hợp tăng ở Kosambī là ai, mà chỉ nêu lên những vấn đề liên quan đến chú giải của luận sư Bà-la-môn Phật Âm.

Nhưng trước hết, muốn hiểu rõ sự chú giải của Phật Âm xuyên tạc Phật Pháp như thế nào, phải tham khảo thêm “Chuyện giáo hội ở Kosambī” thuộc Tiểu Bộ Kinh (tạng Kinh này được kết tập về sau). Theo câu chuyện trong tài liệu này, sự kiện phân hóa trầm trọng tại Kosambī là do từ một sự việc rất ư nhỏ nhặt không đáng, có nhiều chi tiết không phù hợp với Chương “Kosambī” và Chương “Chia Rẽ Hội Chúng” của tạng Luật; và hoàn toàn khác với bốn điều Đức Phật đã nêu trong bài kinh Phạm Tội thuộc Tăng Chi Bộ được kết tập trong lần đầu tiên.

Theo tài liệu trong Tiểu Bộ, nguyên nhân tranh chấp ở Kosambī là do hai nhóm Luật sư và Pháp sư tại đây tranh chấp nhau đến độ trục xuất nhau chỉ vì... vị Pháp sư vô tình sau khi rửa mặt đã để sót lại chút nước dư trong ghè múc nước (sic) và vị Luật sư dựa vào đây khép tội vị Pháp sư (sic) Sau đó cả hai vị Pháp sư và Luật sư lôi kéo hội chúng của mình tranh chấp với phe của vị kia.

Để thẩm định tính khả thi của sự việc này, hãy thử đặt vài câu hỏi:

Ø Không lẽ ngay thời Phật, hai vị Pháp sư và Luật sư đã là thầy của nhiều người lại còn đi chấp nhất nhau chuyện nhỏ nhặt như vậy?

Ø Không lẽ tất cả giáo đoàn ở Kosambī gồm toàn những Tỳ-kheo nhỏ mọn chấp thủ vào những chuyện quá vụn vặt tầm thường đến như thế hay sao?

Ø Chẳng lẽ cả một Giáo hội ở Kosambī lại không có đến một vị Tỳ-kheo nào sáng suốt để chỉ rõ cho hai bên thấy nguyên nhân tranh chấp quá nhỏ mọn như vậy?

Ø Chẳng lẽ không còn một ai biết nhắc lại lời dạy chí lý của Bậc Đạo Sư: “Các Tôn giả chớ có cãi lộn với nhau, vì một vấn đề nhỏ nhặt" (Trung Bộ, 103)? Các Tỳ-kheo ở Kosambī không còn việc nào khác để làm, để tu hay sao lại cùng rơi vào chuyện không đáng như thế?

Ø Lý do gây ra tranh chấp nghiêm trọng ở Kosambī được kết tập về sau có phù hợp với bốn lý do nêu lên trong bài kinh “Phạm Tội” không?

Ø Các tình tiết có phù hợp với Chương “Kosambī” và Chương “Chia Rẽ Hội Chúng” của tạng Luật không? Các tình tiết có phù hợp với nội dung giảng dạy trong Kinh Kosambīya (TB1, 48) không? Nếu không thì vì sao?

Ø Các Kinh - Luật được kết tập ngay sau khi Đức Thế Tôn vừa nhập Niết Bàn có đáng tin cậy hơn các tài liệu được kết tập về sau này? Như chánh Kinh và chánh Luật có ghi rõ, ngay khi Phật còn tại tiền đã có biết bao các Bà-la-môn giả lời Phật xuyên tạc Phật Pháp, thử hỏi các Bà-la-môn sau này sợ gì không dám dựng thêm kinh giả để phá hoại chúng Tăng?

Cũng cần lưu ý thêm, ngay sau khi Đức Thế Tôn vừa mới nhập Niết Bàn, ngay lúc 500 vị Thánh Tăng A-la-hán đang kết tập Kinh-Luật lần thứ nhất tại Rajagaha, tôn giả Purāṇa đã tuyên bố: “- Này các đại đức, Pháp và Luật đã được các vị trưởng lão trùng tụng một cách tốt đẹp. Tuy nhiên, tôi chỉ ghi nhận chính những gì tôi đã được nghe từ miệng và đã được thọ lãnh từ miệng của đức Thế Tôn thôi” (Tiểu Phẩm, Chương 11, Liên quan năm trăm vị, đoạn [623]).

Đối với chánh Kinh và chánh Luật được chính 500 vị Thánh Tăng A-la-hán đương thời Phật “trùng tụng một cách tốt đẹp”, ấy thế mà tôn giả Purāṇa còn phải căn cứ vào những gì chính mình nghe từ kim khẩu của Đức Thế Tôn. Theo đó, các Tỳ-kheo có nên dễ dãi tin tưởng một chiều vào tất cả các tài liệu xuất hiện sau này?

Lại nữa, mới một trăm năm sau khi Phật nhập diệt, các Tỳ-kheo tại Vajji đã ngang nhiên chế ra mười điều luật mới phi pháp, phi luật. Thử hỏi, một ngàn năm sau những chú thích, chú giải, những pháp và luật mới thêm vào của một ông Bà-la-môn như Phật Âm có đáng tin tưởng ngay liền? Những ai còn phân vân về điều này hãy tỉnh giác đọc kỹ các chuyện Tiền Thân Đức Phật về cuối và các chứng minh dưới đây sẽ thấy rõ hơn.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

  124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT! Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết...