84-CON NGỰA THÀNH TROY/ 4
2) Đi tìm
nguyên nhân phân hóa tại Kosambī và kẻ phá hòa hợp Tăng
Riêng trong
phần chú giải Pháp Cú số 6, luận sư Bà-la-môn Phật Âm cũng có nêu lên tích các
Tỳ-kheo ở Kosambī. Thế nhưng, một người đọc kỹ các tài liệu trong chánh Kinh và
chánh Luật liên quan đến sự kiện này, có thể thấy ngay chú giải của Phật Âm
không những không giải chú được điều gì hay hơn, trái lại đã lược bỏ rất nhiều
các sự kiện quan trọng có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, bên cạnh đó còn thêm vào những
chi tiết không trung thực với đầy những thâm ý nguy hiểm.
Để xác chứng
cho nhận định nêu trên có thể căn cứ vào sáu nguồn tài liệu gốc liên quan trực
tiếp đến sự kiện nổi cộm này, bao gồm:
(1) Bài kinh
“Tùy Phiền Não”, Trung Bộ 3, số 128
(2) Kinh
“Kosambīya”, Trung Bộ 1, số 48
(3) Kinh Phật
Tự Thuyết (Ud.41)
(4) Chương X
“Kosambī” thuộc Đại Phẩm - Luật Tạng
(5) Chương
VII “Chia Rẽ Hội Chúng”, Tiểu Phẩm, Luật Tạng; và
(6) “Chuyện
Giáo Hội Ở Kosambī” số 428 thuộc Chuyện Tiền Thân Đức Phật, Tiểu Bộ tập 1.
Trong các
tài liệu trên, riêng Đại Phẩm của tạng Luật đã dành cả một Chương thứ mười phản
ảnh biến cố này một cách rất cụ thể với nhiều ý nghĩa thiết thực. Ngay phần đầu
của chương này đã nêu rõ sự phân hoá Tăng đoàn tại Kosambī là do có sự bất đồng
ý kiến về việc phạt án treo một vị Tỳ-kheo.
Sự kiện được
ghi lại nguyên văn trong chánh Luật như sau: ““[238] Lúc bấy giờ, đức Phật
Thế Tôn ngự tại Kosambī, tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ phạm
tội. Vị ấy có quan điểm về tội ấy là có tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm
về tội ấy là vô tội. Vào một lúc khác, vị ấy có quan điểm về tội ấy
là vô tội còn các tỳ khưu khác có quan điểm về tội ấy là có tội. Khi ấy, các vị
tỳ khưu ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này:
- Này đại đức,
đại đức đã phạm tội, đại đức có thấy tội ấy không?
- Này các đại
đức, không có tội gì ở tôi để tôi có thể thấy.
Sau đó, các
vị tỳ khưu ấy đã đạt được sự hợp nhất và phạt án treo vị tỳ
khưu ấy trong việc không nhìn nhận tội. Và vị tỳ khưu ấy là vị nghe nhiều, kinh
điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề,
là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự
học tập. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu thân thiết đồng
quan điểm và đã nói điều này:
- Này các đại
đức, điều ấy là vô tội, điều ấy không phải là tội. Tôi là không phạm (tội), tôi
không phải là phạm (tội). Tôi là không bị án treo, tôi không phải là bị án
treo, tôi đã bị án treo bởi hành sự sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy
trì. Vì Pháp vì Luật, các đại đức hãy về phe của tôi...”
Chuyện bắt đầu
chỉ có thế, nhưng sau đó Tăng chúng tại Kosambī bị phân hoá thành hai nhóm
tranh chấp nhau kịch liệt!
Trước khi đi
sâu tìm hiểu vấn đề cần lưu ý thêm, theo chánh Luật, vị Tỳ-kheo phạm tội chỉ
lôi kéo các Tỳ-kheo thân thiết đồng quan điểm với mình, chứ không phải vị này
là Pháp sư lôi kéo các học trò của mình. Và vị ấy “vì Pháp vì Luật” tranh chấp
chứ không phải nhân danh nhóm Pháp sư mâu thuẫn với nhóm Luật sư như tài liệu
sau này mô tả.
Tuy nhiên vấn
đề cần đặt ra là vì sao chỉ từ một án phạt treo bình thường lại có thể dẫn đến
sự tranh chấp rộng lớn trong Tăng đoàn? Đằng sau sự kiện này còn có một nguyên
nhân sâu xa nào khác?
Như đoạn
chánh Luật đã nêu rõ, vị Tỳ-kheo nọ đã phạm tội (về sau, chính vị này đã thừa nhận và cả
Đức Thế Tôn cũng đã xác định là phạm tội, đoạn [258]), thế nhưng chính bản thân
vị này lại có những ý kiến trái ngược nhau vào những lúc khác nhau, không những
thế, các Tỳ-kheo khác cũng mâu thuẫn y như vậy. Tại sao có sự bất thường này?
Để giải nghi
tường tận các thắc mắc trên, cần tham khảo thêm bài kinh Phạm Tội (Tăng Chi tập
2, chương 4, phẩm 25 “Sợ Hãi Phạm Tội”, trang 272-274) với nhiều chi tiết
rất phù hợp với sự kiện tranh chấp ở Kosambī (Xem phần Tham khảo)
Trong bài
kinh này Đức Thế Tôn, khi ấy cũng ở tại Kosambī, đã chỉ rõ nguyên nhân của sự
phân hóa Tăng đoàn là “do thấy bốn lợi ích này, kẻ ác Tỷ-kheo thích
thú với phá hòa hợp Tăng”: do theo ác giới, do có ác kiến, do nuôi sống bằng
tà mạng và do tham muốn lợi dưỡng, tham muốn cung kính, tham muốn không bị
khinh miệt nên gây sự phá hoại chúng Tăng; và vì kẻ ác Tỳ-kheo nghĩ rằng “nếu họ hòa hợp,
họ sẽ làm hại ta; nếu họ chia rẽ, họ sẽ không làm hại được ta”.
Đến đây một
câu hỏi đặt ra: Vậy ai là kẻ ác Tỳ-kheo thích thú với việc phá hòa hợp Tăng ở
Kosambī mà Đức Phật đã nói đến? Phải chăng chính là vị Tỳ-kheo phạm tội trong
chương “Kosambī”? Hoàn toàn không đúng, vì chính tạng Luật đã nói rõ “vị tỳ
khưu ấy là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ
về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm
nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập”. Một vị như vậy không thể nào vì
một án treo lại đi phá hoà hợp tăng để phải mang tội vô gián. Vậy, còn người
nào khác nữa?
Căn cứ vào
bài kinh “Kakudha”, Tăng Chi tập 2, chương 5, phẩm Kakudha, tr. 507-513, có thể
giúp xác định được nghi phạm. Trong bài kinh này đã ghi lại lời dạy của Đức Thế
Tôn lúc Ngài cũng ở tại Kosambī về năm bậc Đạo sư ở đời, nhân sự kiện Tôn giả Mục
Kiền Liên thông báo về ý muốn lãnh đạo chúng Tăng của Đề Bà Đạt Đa. Như nhiều
người đều biết, chính từ tham vọng này đã khiến Đề Bà Đạt Đa trở thành kẻ phá
hòa hợp Tăng tiêu biểu đầu tiên trong Phật giáo.
Rõ ràng hơn
nữa, trong Tiểu Phẩm, chương 7 “Chia Rẽ Hội Chúng”, lúc Đức Thế Tôn cũng ở tại
Kosambī trong tu viện Ghosita, Tạng Luật này đã phản ảnh đầy đủ dã tâm và hành
vi phá hoà hợp Tăng của Devadatta. Cụ thể như hai đoạn nguyên văn dưới đây:
“[348] Sau
đó, đức Thế Tôn khi đã ngự ở Anupiyā theo như ý thích đã lên đường đi về phía
thành Kosambī. Trong khi tuần tự du hành Ngài đã ngự đến thành Kosambī. Tại nơi
đó, trong thành Kosambī, đức Thế Tôn ngự ở tu viện Ghosita.
[349] Khi ấy,
Devadatta trong lúc độc cư thiền tịnh đã có ý nghĩ suy tầm như vầy sanh khởi: ‘Ta
nên làm cho ai tin tưởng để khi người ấy đã đặt niềm tin nơi ta rồi thì nhiều lợi
lộc và vinh hiển có thể phát sanh?” Sau đó, điều này đã khởi lên cho
Devadatta: “Hoàng tử Ajātasattu này còn trẻ và có tương lai rạng rỡ. Hay là
ta nên làm cho hoàng tử Ajātasattu tin tưởng để khi vị ấy đã đặt niềm tin nơi
ta rồi thì nhiều lợi lộc và vinh hiển sẽ phát sanh?’”
Sau đó,
chánh Luật đã ghi lại những sự kiện giống như bài kinh “Kakudha” trong Tăng
Chi.
(Ghi chú:
Theo tài liệu về “45 mùa hạ của Đức Phật” được lưu hành trên Internet (tài liệu
này không ghi rõ căn cứ theo Kinh và Luật nào, NTV) cho thấy: chỉ có ba lần hạ
Đức Phật ở tại Kosambī: hạ thứ sáu (523 TCN), hạ thứ chín (520 TCN) và hạ thứ
mười (519 TCN). Trong lần thứ nhất, Đức Phật ở tại đồi Mankula thuộc Kosambī, xứ
Vamsa để thu phục và giáo hóa các ngoại đạo. Lần thứ hai, nhân khi bà thứ hậu
Magandhiya của vua Udena oán hận và vu cáo Đức Phật, Ngài đã dạy tôn giả A-nan
về hạnh kham nhẫn. Chỉ trong lần thứ ba, kỳ hạ thứ mười ở Kosambī, mới có sự kiện
xảy ra tranh chấp chia rẽ chúng Tăng và Đức Phật vào rừng Pārileyyaka sống một
mình).
Kết hợp các
tài liệu trong chánh Kinh và chánh Luật cho thấy: sự kiện “Chia Rẽ Hội
Chúng” tại Kosambī hoàn toàn có khả năng do Đề Bà Đạt Đa gây ra. Chính Đề Bà Đạt
Đa đã nhân sự kiện vị Tỳ-kheo phạm tội để kích động gây chia rẽ trong Tăng
chúng nhằm đạt được lợi ích riêng tư của ông ta đúng như trong bài kinh Phạm Tội
đã nêu. Chỉ có sự thâm độc và nham hiểm của Đề Bà Đạt Đa mới có thể khiến cho một
vị Tỳ-kheo rành rẽ về Pháp, về Luật, hạnh kiểm tốt đẹp và cả chúng Tăng cũng phải
mâu thuẫn với chính mình để rồi chống báng lẫn nhau.
Thiết nghĩ
đây là nhận định có cơ sở với những chứng cứ thuyết phục. Tuy vậy, vấn đề này
xin dành cho các sử gia, những người biết đặt chứng cứ lên trên đức tin. Bài viết
này không nhằm mục đích xác định rõ vị ác Tỳ-kheo phá hòa hợp tăng ở Kosambī là
ai, mà chỉ nêu lên những vấn đề liên quan đến chú giải của luận sư Bà-la-môn Phật
Âm.
Nhưng trước
hết, muốn hiểu rõ sự chú giải của Phật Âm xuyên tạc Phật Pháp như thế nào, phải
tham khảo thêm “Chuyện giáo hội ở Kosambī” thuộc Tiểu Bộ Kinh (tạng Kinh này được
kết tập về sau). Theo câu chuyện trong tài liệu này, sự kiện phân hóa trầm trọng
tại Kosambī là do từ một sự việc rất ư nhỏ nhặt không đáng, có nhiều chi tiết
không phù hợp với Chương “Kosambī” và Chương “Chia Rẽ Hội Chúng” của tạng Luật;
và hoàn toàn khác với bốn điều Đức Phật đã nêu trong bài kinh Phạm Tội thuộc
Tăng Chi Bộ được kết tập trong lần đầu tiên.
Theo tài liệu
trong Tiểu Bộ, nguyên nhân tranh chấp ở Kosambī là do hai nhóm Luật sư và Pháp
sư tại đây tranh chấp nhau đến độ trục xuất nhau chỉ vì... vị Pháp sư vô
tình sau khi rửa mặt đã để sót lại chút nước
dư trong ghè múc nước (sic) và vị Luật sư dựa vào đây khép tội vị Pháp
sư (sic) Sau đó cả hai vị Pháp sư và Luật sư lôi kéo hội chúng của mình tranh chấp
với phe của vị kia.
Để thẩm định
tính khả thi của sự việc này, hãy thử đặt vài câu hỏi:
Ø Không
lẽ ngay thời Phật, hai vị Pháp sư và Luật sư đã là thầy của nhiều người lại còn
đi chấp nhất nhau chuyện nhỏ nhặt như vậy?
Ø Không
lẽ tất cả giáo đoàn ở Kosambī gồm toàn những Tỳ-kheo nhỏ mọn chấp thủ vào những
chuyện quá vụn vặt tầm thường đến như thế hay sao?
Ø Chẳng
lẽ cả một Giáo hội ở Kosambī lại không có đến một vị Tỳ-kheo nào sáng suốt để
chỉ rõ cho hai bên thấy nguyên nhân tranh chấp quá nhỏ mọn như vậy?
Ø Chẳng
lẽ không còn một ai biết nhắc lại lời dạy chí lý của Bậc Đạo Sư: “Các
Tôn giả chớ có cãi lộn với nhau, vì một vấn đề nhỏ nhặt" (Trung Bộ,
103)? Các Tỳ-kheo ở Kosambī không còn việc nào khác để làm, để tu hay sao lại
cùng rơi vào chuyện không đáng như thế?
Ø Lý do
gây ra tranh chấp nghiêm trọng ở Kosambī được kết tập về sau có phù hợp với bốn
lý do nêu lên trong bài kinh “Phạm Tội” không?
Ø Các
tình tiết có phù hợp với Chương “Kosambī” và Chương “Chia Rẽ Hội Chúng” của tạng
Luật không? Các tình tiết có phù hợp với nội dung giảng dạy trong Kinh
Kosambīya (TB1, 48) không? Nếu không thì vì sao?
Ø Các
Kinh - Luật được kết tập ngay sau khi Đức Thế Tôn vừa nhập Niết Bàn có đáng tin
cậy hơn các tài liệu được kết tập về sau này? Như chánh Kinh và chánh Luật có
ghi rõ, ngay khi Phật còn tại tiền đã có biết bao các Bà-la-môn giả lời Phật
xuyên tạc Phật Pháp, thử hỏi các Bà-la-môn sau này sợ gì không dám dựng thêm
kinh giả để phá hoại chúng Tăng?
Cũng cần lưu
ý thêm, ngay sau khi Đức Thế Tôn vừa mới nhập Niết Bàn, ngay lúc 500 vị Thánh
Tăng A-la-hán đang kết tập Kinh-Luật lần thứ nhất tại Rajagaha, tôn giả Purāṇa
đã tuyên bố: “- Này các đại đức, Pháp và Luật đã được các vị trưởng lão
trùng tụng một cách tốt đẹp. Tuy nhiên, tôi chỉ ghi nhận chính những gì tôi đã
được nghe từ miệng và đã được thọ lãnh từ miệng của đức Thế Tôn thôi” (Tiểu
Phẩm, Chương 11, Liên quan năm trăm vị, đoạn [623]).
Đối với
chánh Kinh và chánh Luật được chính 500 vị Thánh Tăng A-la-hán đương thời Phật
“trùng tụng một cách tốt đẹp”, ấy thế mà tôn giả Purāṇa còn phải căn cứ vào những
gì chính mình nghe từ kim khẩu của Đức Thế Tôn. Theo đó, các Tỳ-kheo có nên dễ
dãi tin tưởng một chiều vào tất cả các tài liệu xuất hiện sau này?
Lại nữa, mới
một trăm năm sau khi Phật nhập diệt, các Tỳ-kheo tại Vajji đã ngang nhiên chế
ra mười điều luật mới phi pháp, phi luật. Thử hỏi, một ngàn năm sau những chú
thích, chú giải, những pháp và luật mới thêm vào của một ông Bà-la-môn như Phật
Âm có đáng tin tưởng ngay liền? Những ai còn phân vân về điều này hãy tỉnh giác
đọc kỹ các chuyện Tiền Thân Đức Phật về cuối và các chứng minh dưới đây sẽ thấy
rõ hơn.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét