Thứ Ba, 24 tháng 1, 2023

67-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN

 

67-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN

Phản Bác 48 Giới Khinh Bồ-tát Giới Dại thừa Ba tàu Bà-la-môn

Nguyên văn “37.- GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN 61

Nếu Phật tử, mỗi năm phải hai kỳ hành đầu đà, mùa Đông mùa Hạ thời ngồi thiền kiết hạ an cư. 

Thường dùng nhành dương, nước tro, ba y, bát, bình, tọa cụ, tích trượng, hộp lư hương, đãy lượt nước, khăn tay, con dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ tát.

Khi Phật tử hành đầu đà cùng lúc du phương đi lại trăm dặm ngàn dặm, mười tám món này mang luôn bên mình. 

Đây là hai kỳ hành đầu đà trong mỗi năm: Từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, và từ rằm tháng tám đến rằm tháng mười. 

Trong hai kỳ hành đầu đà, luôn mang theo mình 18 món ấy như chim hai cánh. 

Nếu đến ngày bố tát, hàng tân học Phật tử, mỗi nửa tháng luôn bố tát, tụng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. 

Lúc tụng giới, nên ở trước tượng Phật và Bồ tát mà tụng. 

Chỉ có một người bố tát thời một người tụng.

Nếu hai người, ba người nhẫn đến trăm nghìn người cũng một người tụng, còn bao nhiêu thời lắng nghe. 

Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp. 

Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy điều và năm điều. 

Trong lúc kiết hạ an cư cũng phải mỗi việc đúng theo phép tắc. Lúc đầu đà chớ đi đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói, cùng lụt, bão, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít ... 

Tất cả nơi hiểm nạn ấy đều không được đến. Chẳng những lúc hành đầu đà, mà lúc kiết hạ an cư cũng không được vào những chỗ hiểm nạn ấy. 

Nếu cố ý vào những nơi ấy, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.”

Chú thích 61 (tr.36): “Đầu đà có nghĩa là phủi sạch trần cấu của thân tâm. Trong mười tám món, nhành dương dùng nhăn cho tưa ra để chà răng vì thời ấy không dùng bàn chải. 

Nước tro dùng như xà bông bây giờ. Ba y: y năm điều, bảy điểu, và đại y (chín điều xấp lên cho đến hai mươi lăm điều). Bình dùng đựng nước. Bát (Bát đa la) dùng đựng cơm và đồ ăn. 

Lư hương để dâng hương cúng Phật. Đãy lược nước dùng hộ mạng cho sanh linh. 

Con dao để cạo râu tóc, cắt móng tay. 

Cái nhíp để nhổ lông mũi. Ba y là y phước điền, đức Phật chế riêng cho Tỳ kheo và Tỳ kheo ni mặc, người chưa thọ giới không nên lạm dụng.

Nếu là Thức xoa, Sa di ni thời tự có mạn y, còn hàng tại gia thời chỉ mặc y phục hoại sắc. 

Những xứ, những nơi hiểm nạn có nhiều sự cảnh hại thân, chướng đạo, nên cấm đển ở. Trong Giới Kinh (Đại Luật) lại còn cấm những nơi nhiều kiến, nhiều muỗi.”

PHẢN BÁC: GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN CỦA BỒ TÁT GIỚI.

Theo tinh thần Nguyên Thuỷ, vị Tỳ-kheo Thanh Văn chỉ có ‘ba y, một bát’ mới đúng là như ‘hai cánh của một con chim’. Đàng này Bồ-tát giới dạy mang đến 18 món thì như một nhà kho di động chứ hai cánh làm sao được.

Đã vậy, thời chưa có loa phóng thanh mà nói chuyện một người tụng giới cho trăm nghìn người nghe, đây chỉ là chuyện tiếu lâm thần thoại. Bồ-tát giới ví von khôi hài kiểu này chỉ dụ được mấy đứa con nít, còn đối với những người thọ trì kinh luật Nguyên Thuỷ chẳng hù dọa được gì, không những thế họ còn nhủ thầm ‘có kẻ đã học mót, ăn cắp pháp, lại còn nói khoác’. 

Nói Bồ-tát giới tà giới là vì vậy!

Nếu Bồ-tát con cố tâm vào các nơi ‘tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói, cùng lụt, bão, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít’ thì sao? Dễ chết chứ sao! Nếu không chết thời cũng dễ thân tàn ma dại.

Đã vậy, đến chỗ ‘cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo’ mà mang theo lỉnh kỉnh cả kho hàng, còn lận theo cả dao với tích trượng, dễ bị vu khống cho là ăn trộm, là kẻ sát nhân có khi còn chết oan nữa. 

Hậu quả tai hại đến độ khó bảo toàn mạng sống đến như vậy, mà Bồ-tát giới phán nếu cố vi phạm chỉ bị tội nhẹ (?!) Bồ-tát giới phán kiểu này chẳng khác nào ‘xúi trẻ ăn kít gà’.

Lại nữa, Bồ-tát con cố ý vào các nơi ‘tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói, cùng lụt, bão, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít ...’ chắc gì còn được sống mà chịu ‘khinh cấu tội’. Chuyện cứ như đùa.

Vả lại, hai kỳ hành đầu đà trong mỗi năm ‘từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, và từ rằm tháng tám đến rằm tháng mười’, là mùa Xuân và mùa Thu, chứ không phải mùa Đông và mùa Hạ như Bồ-tát giới phán. 

Thời gian mùa tiết hiển nhiên đến như vậy mà Bồ-tát giới và những người thọ trì còn lú lẫn, không thấy sai, thời các pháp cao siêu vi diệu của Nhị Thừa làm sao thấu rõ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

  124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT! Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết...