67-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN
Phản Bác 48
Giới Khinh Bồ-tát Giới Dại thừa Ba tàu Bà-la-môn
Nguyên văn
“37.- GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN 61
Nếu Phật tử,
mỗi năm phải hai kỳ hành đầu đà, mùa Đông mùa Hạ thời ngồi thiền kiết hạ
an cư.
Thường dùng
nhành dương, nước tro, ba y, bát, bình, tọa cụ, tích trượng, hộp lư hương,
đãy lượt nước, khăn tay, con dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh
luật, tượng Phật, tượng Bồ tát.
Khi Phật tử
hành đầu đà cùng lúc du phương đi lại trăm dặm ngàn dặm, mười tám món này
mang luôn bên mình.
Đây là hai kỳ
hành đầu đà trong mỗi năm: Từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, và từ
rằm tháng tám đến rằm tháng mười.
Trong hai
kỳ hành đầu đà, luôn mang theo mình 18 món ấy như chim hai cánh.
Nếu đến ngày
bố tát, hàng tân học Phật tử, mỗi nửa tháng luôn bố tát, tụng mười giới
trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Lúc tụng
giới, nên ở trước tượng Phật và Bồ tát mà tụng.
Chỉ có một
người bố tát thời một người tụng.
Nếu hai người,
ba người nhẫn đến trăm nghìn người cũng một người tụng, còn bao nhiêu thời lắng
nghe.
Người tụng
ngồi cao, người nghe ngồi thấp.
Mỗi người đều
đắp y hoại sắc chín điều, bảy điều và năm điều.
Trong lúc kiết
hạ an cư cũng phải mỗi việc đúng theo phép tắc. Lúc đầu đà chớ đi đến
chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ
cây rậm rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói, cùng lụt, bão, nạn
cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít ...
Tất cả nơi
hiểm nạn ấy đều không được đến. Chẳng những lúc hành đầu đà, mà lúc
kiết hạ an cư cũng không được vào những chỗ hiểm nạn ấy.
Nếu cố ý
vào những nơi ấy, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.”
Chú thích 61
(tr.36): “Đầu đà có nghĩa là phủi sạch trần cấu của thân tâm. Trong mười
tám món, nhành dương dùng nhăn cho tưa ra để chà răng vì thời ấy
không dùng bàn chải.
Nước
tro dùng như xà bông bây giờ. Ba y: y năm điều, bảy điểu, và đại y
(chín điều xấp lên cho đến hai mươi lăm điều). Bình dùng đựng nước. Bát
(Bát đa la) dùng đựng cơm và đồ ăn.
Lư hương để
dâng hương cúng Phật. Đãy lược nước dùng hộ mạng cho sanh linh.
Con dao để cạo
râu tóc, cắt móng tay.
Cái nhíp để
nhổ lông mũi. Ba y là y phước điền, đức Phật chế riêng cho Tỳ kheo và Tỳ
kheo ni mặc, người chưa thọ giới không nên lạm dụng.
Nếu là Thức
xoa, Sa di ni thời tự có mạn y, còn hàng tại gia thời chỉ mặc y phục hoại
sắc.
Những xứ,
những nơi hiểm nạn có nhiều sự cảnh hại thân, chướng đạo, nên cấm đển ở.
Trong Giới Kinh (Đại Luật) lại còn cấm những nơi nhiều kiến, nhiều muỗi.”
PHẢN BÁC: GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN CỦA BỒ TÁT GIỚI.
Theo tinh thần
Nguyên Thuỷ, vị Tỳ-kheo Thanh Văn chỉ có ‘ba y, một bát’ mới đúng là
như ‘hai cánh của một con chim’. Đàng này Bồ-tát giới dạy mang đến 18
món thì như một nhà kho di động chứ hai cánh làm sao được.
Đã vậy, thời
chưa có loa phóng thanh mà nói chuyện một người tụng giới cho trăm nghìn
người nghe, đây chỉ là chuyện tiếu lâm thần thoại. Bồ-tát giới ví von khôi
hài kiểu này chỉ dụ được mấy đứa con nít, còn đối với những người thọ trì
kinh luật Nguyên Thuỷ chẳng hù dọa được gì, không những thế họ còn nhủ
thầm ‘có kẻ đã học mót, ăn cắp pháp, lại còn nói khoác’.
Nói Bồ-tát
giới tà giới là vì vậy!
Nếu Bồ-tát
con cố tâm vào các nơi ‘tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất
đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói, cùng lụt,
bão, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít’ thì sao? Dễ chết chứ sao! Nếu
không chết thời cũng dễ thân tàn ma dại.
Đã vậy, đến
chỗ ‘cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo’ mà mang theo lỉnh kỉnh cả kho hàng, còn
lận theo cả dao với tích trượng, dễ bị vu khống cho là ăn trộm, là kẻ sát
nhân có khi còn chết oan nữa.
Hậu quả tai
hại đến độ khó bảo toàn mạng sống đến như vậy, mà Bồ-tát giới phán nếu cố
vi phạm chỉ bị tội nhẹ (?!) Bồ-tát giới phán kiểu này chẳng khác nào
‘xúi trẻ ăn kít gà’.
Lại nữa, Bồ-tát
con cố ý vào các nơi ‘tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai
gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói, cùng lụt,
bão, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít ...’ chắc gì còn được sống
mà chịu ‘khinh cấu tội’. Chuyện cứ như đùa.
Vả lại, hai
kỳ hành đầu đà trong mỗi năm ‘từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, và từ rằm tháng
tám đến rằm tháng mười’, là mùa Xuân và mùa Thu, chứ không phải mùa Đông
và mùa Hạ như Bồ-tát giới phán.
Thời gian mùa tiết hiển nhiên đến như vậy mà Bồ-tát giới và những người thọ trì còn lú lẫn, không thấy sai, thời các pháp cao siêu vi diệu của Nhị Thừa làm sao thấu rõ.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét