22-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
Bác 10 Giới
Trọng Bồ-tát Bà-la-môn
Nguyên văn
“6.- GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
Nếu Phật tử,
tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia, Tỳ Kheo, Tỳ
kheo Ni, hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy: nhân rao nói tội lỗi,
duyên rao nói tội lỗi, cách thức rao nói tội lỗi, nghiệp rao nói tội lỗi.
Là Phật tử,
khi nghe những kẻ ác, ngoại đạo cùng người nhị thừa nói những điều
phi pháp, trái luật trong Phật pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ bi
giáo hóa những kẻ ác ấy cho họ sinh tín tâm lành đối với Đại thừa, mà
trái lại Phật tử lại tự mình rao nói những tội lỗi trong Phật pháp. Phật tử
nầy phạm «Bồ Tát Ba La Di tội».
PHẢN BÁC : GIỚI RAO LỖI TỨ CHÚNG CỦA BỒ TÁT GIỚI
Theo luật
pháp thế gian, che dấu tội lỗi của kẻ khác cũng có nghĩa là đồng lõa với tội
lỗi của kẻ đó. Người che dấu kẻ có tội, ít nhiều cũng phải bị xét tội
liên quan. Ví dụ một kẻ sát nhân hoặc trộm cướp bị truy lùng, nhưng được đồng
bọn che dấu.
Khi công lý
xét xử, kẻ che dấu tội phạm hoặc hành vi tội lỗi của tội phạm cũng phải
liên đới chịu trách nhiệm.
Việc che dấu
này có thể khiến tội phạm có điều kiện gây thêm tội ác nhiều hơn, hậu quả
tai hại nhiều hơn.
Tội lỗi do
được che dấu, không bị ngăn chặn kịp thời sẽ gây thêm nhiều tai họa
cho tập thể, cho xã hội.
Chính vì thế
bao che cho cái ác, đó cũng là một tội ác!
Trong Luật
Pātimokkha của ‘Nhị thừa’, một Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào che dấu tội lỗi
của vị đồng đạo cũng phải bị kết tội liên đới tuỳ theo từng trường hợp.
Ví dụ Tội
Ưng đối trị thứ 64: “Vị tỳ khưu nào dầu biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị
tỳ khưu thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
Tất nhiên
các Tăng Ni đều hiểu việc nói xấu đồng đạo với người chưa thọ cụ túc giới
là điều không nên và cũng phạm luật Ưng đối trị thứ 9 (không phải tội
Ba-la-di như Bồ-tát giới) “Vị Tỳ-khưu nào công bố tội xấu của vị Tỳ-khưu đến người
chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có sự
đồng ý của các Tỳ-khưu.”
‘Ngoại trừ
có sự đồng ý của các Tỳ-kheo’ điều này có nghĩa không phải mọi trường hợp
đều bao che tội lỗi cho nhau, trái lại đối với một số trường hợp Tăng
chúng còn phải hành sự công bố (pakāsanīyakammaṃ) công khai cho
dân chúng biết. Ví dụ như trường hợp tội ác của Đề
Bà Đạt Đa chẳng
hạn. Trong Chánh Luật Pātimokkha, Chương Chia Rẽ Hội Chúng, đoạn còn
ghi rõ:]362[
“Sau đó, Đức
Thế Tôn đã bảo các Tỳ-khưu rằng:
- Này các Tỳ-khưu,
như vậy thì hội chúng hãy thực thi hành sự công bố (pakāsanīyakammaṃ) về Devadatta
trong thành Rājagaha rằng: “Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản
chất đã khác. Việc gì Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói,
không nên xem điều ấy là (của) Đức Phật, Đức Pháp, hoặc Đức Tăng, mà nên
xem điều ấy là (của) chính Devadatta.””
Phải hành sự
công bố tội của Devadatta một cách rõ ràng trong thành Rājagaha vì:
- Để dân
chúng biết rõ bản chất của Devadatta, để không bị Devadatta lừa dối gây
tai họa.
- Để dân
chúng hiểu rõ Tăng chúng không phải bao gồm những phần tử xấu ác như
Devadatta.
- Để không
nêu gương xấu trong hội chúng.
- Để kẻ xấu
không lợi dụng xuyên tạc vu cáo Tăng đoàn.
Giới luật
thuộc chánh giáo là như vậy, nghiêm hay không nghiêm cũng ở chỗ này.
Không che
dấu tội mình và người khác mới giúp mình và hội chúng thanh tịnh vững mạnh,
mới đem lại niềm tin cho những người chưa có đức tin, làm tăng thêm
niềm tin nơi những người đã có đức tin, giúp cá nhân và Tăng đoàn tăng trưởng
thanh tịnh.
Trong điều
trị bệnh, ngoại trừ một số trường hợp vị Bác sĩ không nói rõ bệnh trạng
cho bệnh nhân nhằm tránh sự hoang mang không cần thiết.
Còn thông
thường một người biết mình hoặc người khác mắc bệnh nhưng che dấu không
nói ra, đã không giúp bệnh thuyên giảm mà còn khiến tăng trưởng nguy
hại nhiều thêm. Gặp bệnh truyền nhiễm mà còn che dấu lại còn nguy hiểm hơn
nữa.
Tội lỗi cũng
vậy. Một hội chúng che dấu tội lỗi cho nhau chỉ khiến cho tội lỗi có điều
kiện tăng trưởng thêm, sự bất thiện đã không được diệt trừ, điều thiện
lại bị tổn giảm, không đem lại niềm tin cho những người chưa có đức tin,
làm suy giảm niềm tin nơi những người đã có đức tin, và Đạo Pháp suy
đồi nhanh hơn.
Đây là lý do
vì sao kẻ vẽ ra Bồ-tát giới ban điều luật cấm rao lỗi bốn chúng.
Hãy quan sát
trong thực tế, thông thường những hội chúng mờ ám phi pháp mới bao che tội lỗi
cho nhau, vì chúng sợ bị phát hiện, bị lên án, bị bắt bớ. Ví dụ đám trộm
cướp, bọn buôn lậu, lũ lừa đảo, nhóm làm hàng gian hàng giả v.v.. những hạng
này thường che dấu tội lỗi cho nhau để tiếp tục gây tội ác.
Đấy cũng là
lý do vì sao những kẻ giả danh Phật vẽ ra Bồ-tát giới phải chế giới trọng
ba-la-di cấm rao lỗi của tứ chúng Đại Thừa.
Bởi, nếu
các Bồ-tát con công khai tội lỗi của nhau sẽ khiến mọi người thấy ra
nhiều sự thật tồi bại, lộ ra những bộ mặt giả đạo đức của các Đại Thừa sư
khiến mọi người chán ngán, tẩy chay Đại Thừa giáo.
Chính Bồ-tát
giới đã dẫn đường cho những sự phá giới một cách khéo léo (như uống rượu, nhận
vàng bạc, tà mạng...), nhưng hội chúng lại bao che tội lỗi cho nhau, cho
nên chấy rận trong chăn mới sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều, nhưng chỉ
có những người ‘trong chăn mới biết chăn có rận’.
Đây là sự
phá hoại ngầm cực kỳ thâm độc của các tổ sư gián điệp.
Thâm độc hơn
nữa, khi Bồ-tát giới một mặt cấm rao lỗi lẫn nhau, nhưng mặt khác lại
công khai xuyên tạc nói xấu chúng Thanh Văn Nguyên thuỷ Nhị thừa của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Các tổ sư
gián điệp Bà-la-môn đã trắng trợn xếp những đệ tử Phật chính thống vào
chung với kẻ ác, ngoại đạo.
Thậm chí, họ
còn tuyên truyền rằng Tiểu Thừa Nguyên Thuỷ là phi pháp, phi luật:
‘những kẻ
ác, ngoại đạo cùng người nhị thừa nói những điều phi pháp, trái luật trong
Phật pháp’ (?!)
Thâm độc đến
thế là cùng!
Những ai còn
tin vào điều trên hãy chứng minh Thanh Văn Nhị Thừa phi pháp, trái Pháp
trái Luật ở chỗ nào?
Năm giới,
tám giới của cư sĩ Nguyên thuỷ; cùng 227 giới và 311 giới của Tăng Ni
Thanh Văn, với muôn vàn các pháp môn Nhị Thừa khác như các pháp Bốn
Chánh Cần, Bốn Như Ý Túc, Bốn Niệm Xứ, Năm Căn, Năm Lực, Bảy
Giác Chi, Tám Chánh Đạo, Từ Bi Hỷ Xả, Thân Hành Niệm, Định Niệm Hơi
Thở, Chánh Niệm Tỉnh Giác, Chỉ và Quán, Tứ Thiền, Tam Minh v.v..
những Pháp
và Luật Nhị Thừa này có tác hại ra sao, tàn ác ra sao, lại bị Bồ-tát giới
và Đại Thừa coi thường, đánh lận con đen cùng với những ‘kẻ ác’, với
ngoại đạo???
Không lẽ một
Đức Thế Tôn A La Hán Chánh Đẳng Giác suốt bốn mươi lăm năm hoằng
pháp, trước sau Ngài chỉ tuyên dương những Pháp và Luật Nhị Thừa, thế
nhưng vài trăm năm sau xuất hiện trong các tam tạng mới, ‘ngài’ lại quay
ngoắt hoàn toàn, chê bai những điều mình đã xiển dương, coi khinh những
đệ tử trung thành với Pháp Luật gốc, đánh đồng họ với những kẻ
ác, hàng ngoại đạo???
Rõ ràng chỉ
có những cái đầu cuồng dại, lý trí biến mất mới không nhận chân được điều
quá ư vô lý này. Hẳn chỉ có những đức tin cuồng si mới còn tiếp tục
tin tưởng và bám víu vào những kẻ gián điệp phá hoại ngầm Phật giáo cùng
những ngụy pháp, ngụy luật của chúng.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét