13-BỒ TÁT GIỚI: TƯỜNG THUẬT/ 1
https://dieuphapcuukho.blogspot.com/
Nguyên văn:
“Thuở ấy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc mới thành đạo vô thượng chánh
giác, trong khi ngồi dưới cội Bồ Ðề, Ngài bắt đầu kiết Bồ Tát Giới.
Ngài dạy rằng: Hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận là pháp
chỉ đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn.
Chú thích 25
(tr.32): “Sư tăng trong đây chỉ cho Hòa thượng và A xà lê. Còn chư Tăng,
thì là Tăng bảo trong phẩm vị Tam Bảo (lời giải trong bộ Hiệp Chú).
Hiếu thuận với cha mẹ thì những điều ác về thế gian dứt, mà những điều
lành về thế
gian sanh
trưởng. Hiếu thuận với Sư tăng, Tam Bảo, thì những điều ác của thế gian và
xuất thế gian dứt diệt, những điều lành về thế gian và xuất thế gian
phát sanh cho đến viên mãn thành tựu.
Vì ý
nghĩa ấy, nên hiếu thuận là cốt tủy của Bồ Tát giới, và là chí đạo.”
PHẢN
BÁC : TƯỜNG THUẬT CỦA BỒ TÁT GIỚI
Rõ ràng tác
giả vẽ ra ‘Bồ-tát giới’ là kẻ mạo danh Phật, và kẻ viết thêm chú thích thuộc
hàng hậu bối cả tin ngây thơ, cho nên cả hai mới để lộ ngay từ đầu những
điều phi lý cực kỳ như vậy.
Không đúng
ư? Lúc Đức Phật Thích Ca mới thành đạo, còn ngồi dưới cội Bồ Đề, một ông Tỳ- kheo
còn chưa có, bốn chúng cũng chưa có một ai, lấy đâu ra có ‘sư Tăng’, ‘Tăng
Bảo’ và đệ tử, mà ‘ngài’ dạy các đệ tử phải ‘hiếu thuận với sư tăng,
Tam-Bảo’. Không lẽ ngài kiết giới này cho các chúng sanh ma quỷ trong thế
giới siêu hình?
- Hay Đức Phật
lập giới cho các Bồ-tát ở trên trời ư? Vô lý! Toàn bộ đối tượng được nói đến trong
bản Bồ-tát Giới này đều là hàng Bồ-tát xuất gia lẫn tại gia trần tục. Có vị
nào trong cõi vô hình đâu mà Ngài ngồi ban giới khơi khơi như vậy.
Lại nữa,
ai đã đem bản ‘Bồ-tát giới’ ở cõi vô hình này đến cõi hữu hình? Phật ư?
Sao chánh kinh không hề nói đến.
Hay Ma quỷ?
Hay các Bà-la-môn?
Do vậy, khi
Phật mới thành đạo, còn ngồi dưới cội Bồ-đề, bốn chúng chưa có đến một người mà
Ngài ngồi kiết giới một mình, khuyên dạy đệ tử phải hiếu kính với ‘sư
tăng, Tam Bảo’ là chuyện chỉ có con nít ngây thơ mới không thấy được
sự vô lý.
- Hay Đức Phật
ban giới cho các Bồ-tát Quan Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi...? Phi lý! Mấy người
này ‘đắc quả’ hết rồi còn thọ giới làm gì.
Vả lại, Bồ-tát
giới đâu có nói tới các hạng Bồ-tát này. Cứ hý luận mơ hồ kiểu này, không
lẽ đời nay có một kẻ tung ra bản ‘Luật Tát-bố mới’, hắn cũng nói khơi
khơi rằng Phật thuyết ở trên trời cho các ‘Tát-bố’ cao siêu, chỉ có y là
thọ trì được để kết tập giới thiệu.
Mọi người
cũng tin theo ư? Có điên không?
- Hay Đức Phật
muốn vượt trước thời gian để ban giới? Tà lý! Trong chánh Luật
Pātimokkha, ngài Xá Lợi Phất có hỏi Đức Thế Tôn về việc: Phạm hạnh thời
chư Phật nào đã không tồn tại lâu dài, và Phạm hạnh thời chư Phật nào đã tồn
tại lâu dài.
Đức Phật
Thích Ca đã trả lời rõ ràng: phạm hạnh thời các Đức Thế Tôn Vipassī,
Sikhī, và Vessabhū đã không tồn tại lâu dài. Phạm hạnh thời các Đức
Thế Tôn Kakusandha, Konāgamana, và Kassapa đã tồn tại lâu dài.
Và Đức Phật
Thích Ca cũng đã nêu rõ có hai nguyên nhân chính khiến phạm hạnh
không được tồn tại lâu dài.
Đó là do
Chín Tạng Thánh Kinh bao gồm Khế Kinh, Ứng Tụng, Ký Thuyết, Phúng
Tụng, Không Hỏi Tự Nói, Như Thị Thuyết, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu Pháp, Trí Giải
hay Phương Quảng đã không được nỗ lực thuyết giảng một cách chi tiết,
và vì Giới Bổn Pātimokkha đã không được công bố.
Nghe vậy,
ngài Xá Lợi Phất đã thỉnh cầu Đức Thế Tôn thiết lập giới bổn Pātimokkha
cho các đệ tử.
Nhưng Đức Phật
đã khuyên ngài Xá Lợi Phất hãy chờ đợi, vì việc ban Thánh Giới Luật phải
có đủ nhân duyên và đúng thời điểm của nó, không thể tuỳ tiện vô cớ
được (Xem Tạng Luật, Phần Phân Tích Giới Bổn (Suttavibhanga), Chương
Veranja’)
1 Theo trên, Tạng Luật Pātimokkha đã có từ thời Chư Phật quá khứ, và
phải có đủ nhân duyên Chư Phật mới thiết lập giới bổn (ví dụ phải
có hàng đệ tử, phải có hội chúng, có kẻ phạm tội, dân chúng phàn nàn
v.v...) Xa xưa đã như vậy, hiện nay cũng như thế và tương lai cũng không
thể khác được. Đây là điều hiển nhiên.
Cho nên ai
đó còn muốn theo chân kẻ vẽ ra Bồ-tát giới, ngụy biện chuyện Bồ-tát giới
cũng có trong quá khứ, hiện tại, vị lai cho nên Phật Thích 1 Trong
sách này, tất cả các trích dẫn từ Kinh Tạng Nikāya theo bản dịch của HT
Thích Minh Châu, từ Tạng Luật Pātimokkha theo bản dịch của TK Nguyệt
Thiên Ca mới kiết giới không cần bốn chúng như vậy
(?!) Đây là
kiểu lươn lẹo chỉ có con nít ba tuổi mới chấp nhận.
- Các tổ sư
gián điệp thường ngụy biện ‘thời gian, không gian trong kinh luật Đại Thừa
là không thể nghĩ bàn’, là cao siêu kiểu ‘hạt cải đầu kim’. Đây là lối
hý luận thâm độc nhằm hợp thức hoá các ‘tam tạng’ ngụy tạo đời mới của họ. Cứ
theo kiểu ‘siêu thời gian’ như trên, giả sử thời nay có một kẻ gian manh,
hắn cũng làm giả sư và chui vào Phật giáo để vẽ ra ‘tam tạng’ mới ngụy
tạo. Y cũng dựng nên ông Phật ‘La Xá Nô’ tuyệt đỉnh và cũng lươn lẹo thời
gian - không gian trong ‘tam tạng’ mới của y không thể nghĩ bàn nhằm
hợp thức hoá những phi lý của nó. Thế nhưng vài trăm năm sau lại có những
kẻ tin ngay vào điều này và sổ toẹt tất cả Đại Thừa, Tiểu Thừa.
Các Bồ-tát
con nghĩ sao về những kẻ hậu bối này. Họ có quá vô minh và cả tin không?
Tóm lại, thời
điểm ban giới luật Bồ-tát lúc Phật mới thành đạo, hội chúng chưa có đến một người,
là hết sức vô lý. Ngay từ đầu kẻ vẽ ra Bồ- tát giới đã lộ diện sự nguỵ tạo
và tà vạy của mình.
Với những
người trí, chỉ cần bấy nhiêu cũng quá đủ để phải cảnh giác với tất cả những
gì có trong ‘Kinh Phạm Võng - Bồ-tát giới’ Với sự tỉnh giác đó sẽ thấy
thêm nhiều điều
phi lý tà vạy
khác nữa.
Thật vậy, kẻ
vẽ ra Bồ-tát giới đã không phân biệt được thế nào là ‘giới’, thế nào là ‘hạnh’
cho nên mới phán bừa theo kiểu “hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm
ngăn”.
Đúng ra phải
nói ‘hiếu là hạnh, cũng gọi là đức hạnh’ mới chính xác. Vì sao như vậy?
Bởi vì:
- Giới
(Sila) và Luật (Vinaya) nói chung là những điều răn cấm, ngăn cấm, luật
nghi, phép tắc. Tuỳ theo một nhóm hay một hội chúng nào đó mà có những
Giới cấm riêng.
Ví dụ Đạo Phật có
năm giới, tám giới cho người Cư sĩ. Thiên Chúa Giáo có mười điều răn cho
con Chiên.
- Hạnh là hạnh
kiểm, tánh hạnh, phẩm hạnh, đức hạnh, đạo hạnh. Hạnh cũng là những hành vi
- thái độ -
ngôn ngữ theo những tiêu chuẩn đạo đức nhất định (virtue: behavior showing
highmoral standards).
Đức hạnh có
thể áp dụng chung cho mọi người trong xã hội hoặc một nhóm người.
Ví dụ hạnh
hiếu là hạnh chung cho tất cả các con cháu có đức hạnh đối với cha mẹ, ông
bà, tổ tiên.
Theo trên,
‘hiếu’ thuộc về hạnh, chứ không thuộc giới, lại càng không thể là cấm
ngăn. Trên thế giới, nơi này nơi kia đưa vào bộ Luật hình sự các giới
cấm sát sanh, trộm cướp, tà dâm, uống rượu; chứ chẳng có bộ luật nào đem
hiếu hạnh vào làm giới cấm bao giờ.
Trừ khi nơi
đó có sự bất hiếu tràn lan và quá tệ hại đến độ nhà nước phải ban
hành hiếu hạnh thành luật lệ để bảo vệ cho các bậc cha mẹ xấu số.
Cho nên người
đời thường nói ‘hiếu hạnh’ hoặc ‘hạnh hiếu’ chứ không ai nói ‘hiếu giới’, ‘giới
hiếu’ bao giờ.
Tuy sự hiếu
kính với cha mẹ là đức hạnh tốt đẹp cao quý chung cho tất cả mọi người chứ không
riêng gì Phật giáo, nhưng sự báo hiếu trong Đạo Phật có khác so với sự báo
hiếu của thế gian.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét