117-ĐẠI THIÊN, SƠ TỔ ĐẠI THỪA MẬT TÔNG, CÒN PHÀN PHU DỤC
TƯỞNG
-- Ghi chú Trong bài viết này các trích dẫn từ tạng kinh Nikaya theo bản dịch của HT Thích Minh Châu, từ tạng Luật Patimokkha theo bản dịch của TK Nguyệt Thiên.
Dẫn: Đại Thiên Mahadeva là một
Bà-la-môn, thời vua Asoka, sau Phật khoảng 200 năm. Ông gia nhập Tăng đoàn và tự
xưng là A La Hán, rồi đưa ra năm luận điểm mới, trong đó điều đầu tiên là “A La
Hán còn xuất tinh” (?!). Từ đây Tăng chúng bị phân hóa thành hai phái, kẻ theo
người chống.
Phái Đại
Thiên sau đó tách ra hình thành nên nhóm Đại Chúng Bộ, tiền thân của Đại Thừa.
Chính vì thế, Đại Thiên Mahadeva được nhiều người xem như sơ tổ của Đại Thừa
giáo. Bài luận chứng dưới đây sẽ chứng minh Đại Thiên Mahadeva vẫn còn là kẻ
phàm phu dục tưởng.
Trong Tạng
Luật, Đại Phẩm, Chương Y phục, đoạn [156] còn ghi rõ lời dạy
của đức Thế Tôn như sau:
“- Này
các Tỳ-khưu, ở đây, trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với Ānanda là
sa-môn hầu cận, Ta đã nhìn thấy chỗ nằm ngồi bị lấm lem vì chất dơ, sau khi
nhìn thấy đã hỏi Ānanda rằng: “Này Ānanda, tại sao chỗ nằm ngồi này
bị lấm lem?”
“Bạch
ngài, hiện nay các vị Tỳ-khưu sau khi thọ thực thức ăn thượng hạng, có niệm bị
xao lãng, không được giác tỉnh, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị
xao lãng, không được giác tỉnh, và rơi vào giấc ngủ, rồi tinh dịch bị xuất ra
do chiêm bao. Bạch đức Thế Tôn, do đó chỗ nằm ngồi này đã bị lấm lem vì chất dơ.”
“Này
Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, tinh dịch
bị xuất ra do chiêm bao vì các vị ấy có niệm bị xao lãng, không được giác tỉnh,
và rơi vào giấc ngủ. Này Ānanda, các vị Tỳ-khưu nào có niệm được thiết lập, được
giác tỉnh, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này
Ānanda, các vị nào dầu là phàm nhân đã xa lìa sự tham đắm trong các dục, tinh dịch
của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, tinh dịch của vị A-la-hán có thể bị
xuất ra là điều không có thực tế, không có cơ sở.”
Này các Tỳ-khưu,
đây là năm điều bất lợi của vị có niệm bị xao lãng, không được giác tỉnh, và
rơi vào giấc ngủ: (Vị ấy) ngủ khổ sở, thức dậy khổ sở, thấy mộng điều ác xấu,
chư Thiên không hộ trì, tinh dịch bị xuất ra. Này các Tỳ-khưu, đây là năm điều
bất lợi của vị có niệm bị xao lãng, không được giác tỉnh, và rơi vào giấc ngủ.
Này các Tỳ-khưu,
đây là năm điều thuận lợi của vị có niệm được thiết lập, được giác tỉnh, và rơi
vào giấc ngủ: (Vị ấy) ngủ an lạc, thức dậy an lạc, không thấy mộng điều ác xấu,
chư Thiên hộ trì, tinh dịch không bị xuất ra. Này các Tỳ-khưu, đây là năm điều
thuận lợi của vị có niệm được thiết lập, được giác tỉnh, và rơi vào giấc ngủ.
Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (sử dụng) y lót ngồi (nisīdanaṃ) để bảo vệ cơ thể,
để bảo vệ y, để bảo vệ chỗ ngồi”.
Qua lời dạy
trên và tự thân mỗi người chứng nghiệm thấy rõ: chỉ có những kẻ nào còn tham đắm
trong các dục, có niệm bị xao lãng, không được giác tỉnh khiến bị xuất tinh do
chiêm bao, nên họ mới không tin có những người khác hoặc những vị A-la-hán
không còn bị mộng tinh. Và chỉ có những ai dù là phàm nhân nhưng đã xa lìa tham
đắm trong các dục, không còn bị mộng tinh, mới tin rằng một vị A-la-hán không
còn xuất tinh là điều hoàn toàn thực tế và có cơ sở.
Thế nhưng,
theo A Tì Đạt Ma luận (tác giả?) thuộc truyền thống Đại Thừa [trong bài viết
“Đại Thiên là ai?”, tác giả GD, mục Diễn Đàn,quangduc.com. Nguồn: T27, số
1545, tr.511a10-14 và tr. 510c24 -512a19)], lý do Đại Thiên - Mahadeva, thời
vua Asoka, sống sau Đức Phật 200 năm, xuất gia theo Phật giáo và nêu lên vấn đề
“A-la-hán còn xuất tinh” được tóm tắt như sau (phần trong ngoặc đơn in
nghiêng là chú thích của Hòa Hiệp Đạo Sư):
Đại Thiên thuộc dòng giõi Bà-la-môn, tư thông
với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vị Tỳ-kheo. Sau
đó vị Bà-la-môn
này nghe rằng(?) nếu quy y theo Phật giáo có thể diệt trừ hết tội lỗi
nên xin đượcxuất gia (Phật giáo là nơi chứa chấp và rửa đại nghịch tội Vô gián
cùng tội loạn luân sao?) Sau nhờ thông minh nên Đại Thiên được
nhiều người hâm mộ (Đề Bà Đạt Đa, Hitler, Tần Thuỷ Hoàng
cũng thông minh lắm chứ!).
Một hôm ông nằm ngủ bị mộng tinh. Trước đó vì ông tự
xưng mình là A-la-hán (Đại Thiên đã phạm tội Ba La Di thứ
tư) nên đệ tử hỏi ông,“A-la-hán đã
trừ hết các lậu hoặc, tại
sao thầy còn xuất tinh?” Ông trả lời, “Do thiên ma quấy nhiễu” (Đại Thiên có hơn gì kẻ
phàm phu tục tử? Có người phủ nhận cuốn luận này nhưng không đưa ra chứng cứ cụ
thể. Nếu vậy, tất cả các cuốn luận khác cũng phải bị ném bỏ)
Trong một số
bộ luận khác cũng đều xác nhận Đại Thiên là một Bà-la-môn ngoại đạo và đưa ra
năm điều
giới hạn của thánh quả A-la-hán, trong đó điều đầu tiên là A-la-hán vẫn
còn bị xuất tinh (?!) Từ đâytăng chúng bị chia làm hai phe: phe ủng hộ luận điểm của Đại
Thiên và phe chống đối, hai bên tranh cãi nhau không dứt. Cuối
cùng nhà vua phải đích
thân đến tịnh xá Kỳ Viên, ra lệnh cho chư Tăng hai phái tách
rời nhau mà sống, rồi
cho thi hành phép lấy biểu quyết (sic)
(Điều này
giống như có một kẻ bụi đời, quậy phá, trộm cắp, dốt nát và tà hạnh xông vào một
trường học. Y tự đưa ra năm tiêu chí mới để xác định danh hiệu “Học sinh gương
mẫu” bao gồm: tà hạnh, học dốt, trộm cắp, quậy phá và bụi đời. Thế nhưng vẫn có
một số học sinh tán thành và quay lại phủ nhận những giá trị cũ. Thử hỏi những
học sinh tin theo kẻ ác hạnh là những người như thế nào? Liệu có đáng vì một
chuyện quá vô lý như thế khiến cho trường học phải chia rẽ, tranh chấp?) (Hết tóm tắt)
Tuy vậy, mãi
về sau này sự mâu thuẫn vẫn còn tiếp diễn, phe của Đại Thiên tách ra hình thành nên nhóm Đại
Chúng Bộ, phái còn lại được gọi là Thượng Tọa Bộ. Tiếp đó Đại
Chúng Bộ tự nhận mình là cỗ xe lớnĐại Thừa (Mahayana), và gọi phái Thượng
Tọa Bộ là cỗ xe nhỏ, Tiểu Thừa (Hinayana), với ý miệt thị.
Chưa xong,
phái Đại Chúng Bộ - Đại Thừa tuy có cùng một ông tổ là Đại Thiên nhưng sau này
vẫn được các vị “Phật phát triển” và các Tổ hậu duệ tiếp tục phân hóa thành rất
nhiều cành nhánh khác nhau như: Mật Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Pháp Hoa
Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiên Thai Tông… Thậm chí có cả “Tân tăng tông” gồm các
cư sĩ khoác áo cà-sa nhưng có vợ con y như người thế tục (?!).
Mỗi tông
phái của Đại Thừa có một ông Bụt riêng, Tổ riêng, kinh tạng riêng, tự viện
riêng, hội chúng riêng. Trong những cái riêng đó có một cái chung rất đáng chú
ý, đó là trong cuốn kinh Kim Cang tiêu biểu cho tinh thần “vô phân biệt” triệt
để của Đại Thừa, nhưng lại có những câu sặc mùi phân biệt ly gián: “Giáo
pháp Đại Thừa nói cho những người đi theo giáo pháp Đại Thừa tối thượng… bởi vì
những ai ưa pháp Tiểu Thừa vẫn còn ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả” (đoạn
25)!(Lưu ý: thời Phật không có chuyện Đại Thừa, Tiểu Thừa. Điều này
chứng tỏ kinh Kim Cang do kẻ đời sau vẽ ra, không phải do Phật thuyết)
Còn phái Thượng
Tọa Bộ cũng không chịu thua kém, tự chuyển hóa thành Theravada, không chịu đồng
hóa với “cỗ xe mu rùa - Hinayana” do kẻ khác gán cho. Nhưng “tránh vỏ dưa, gặp
vỏ dừa”, dù Thượng Tọa Bộ có là Hinayana hay Theravada hay gì gì đi chăng nữa
thì cũng thế! Vì sao? Vì một khi họ tự xem mình là nguyên thủy và tự hào giữ
mình trong truyền thống này, phái “chính gốc” đã gián tiếp công nhận sự
phân hóa của Đại Thiên, nghiễm nhiên trở thành một đối trọng của sự chia rẽ
khi mặc nhiên thừa nhận có những phái “không Theravada”, không nguyên thủy,
không truyền thống tức các phái đại-thừa-thãi khác.
Dù trực tiếp
hay gián tiếp góp phần khiến cho Tăng chúng bị phân ly, thì thực ra chẳng còn một
ai là “nguyên thuỷ” hướng thượng. Những đệ tử “chánh thống” và “phát triển” hẳn
đã quên lời dạy chánh truyền sau đây của Đức Phật:
“Giữa quần
chúng la ó,
Không ai
nghĩ mình ngu,
Giữa Tăng
chúng phân ly
Có ai
nghĩ hướng thượng?”
(Trích kinh
số 128, Trung Bộ 3)
Hơn thế nữa,
nhờ trung thành với tạng Luận và vài luận sư gốc Bà-la-môn của mình, nhiều vị
“chánh thống” cũng “lên mặt” xem những lời Phật dạy trong kinh Nguyên Thủy chỉ
là thường pháp, là tục đế, không phải chân nghĩa đế. Điều này có nghĩa họ đã
nguyên thủy hơn cả nguyên thủy, truyền thống hơn cả truyền thống. Bởi lẽ, họ
cũng giống như các Bà-la-môn chánh tông đương thời Đức Phật, cũng biết ca ngợi
các pháp luận của các luận sư của mình là Diệu Pháp, siêu lý và chân nghĩa đế;
còn lời của Gotama chỉ là tục đế, là thường pháp, là dụ người, là trói người
(?!).
May mắn
thay, dù Tăng đoàn đã bị xé nát thành tám mươi bốn ngàn mảnh, nhưng nhờ tất cả
các phe phái vẫn còn bị kềm thúc bởi những giới cấm căn bản và tinh thần Từ Bi
cốt tủy vẫn còn hiện hữu, cho nên các “cỗ xe lớn - nhỏ” đã không quay lại tàn hại
lẫn nhau, thanh toán lẫn nhau như những kẻ ngoại đạo mong muốn. Dầu vậy, tất cả
có nhìn nhau bằng cặp mắt ái kính và có hòa hợp nhau như “nước hòa với sữa” như
trong thời Đức Phật còn hiện tiền không, thì “đoạn trường ai có qua cầu mới
hay”.
Đến đây lại
nhớ đến bốn câu thơ trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, xin được cải
biên đôi chút để bày tỏ nỗi lòng của một người con Phật:
Ngàn năm
trong cõi Phật gia,
Phái Đại,
phái Tiểu khéo là thích nhau.
Trải qua
một cuộc bể dâu.
Những điều
trông thấy mà đau đớn lòng.
Để kết luận,
xin tất cả hãy trở về nguồn, trở về như thời Đức Phật còn tại tiền. Và khi đó,
nếu có ai hỏi những người con Phật tu theo đạo gì, mọi Phật tử đều vui vẻ trả lời:
“Đạo Phật”.
Nếu được hỏi
tiếp: “Thuộc tông phái nào?”, mọi người đều xác quyết: “Đạo Phật là Đạo Phật,
chỉ có một mà thôi, không có tông phái nào khác”.
Hỏi: “Vì
sao?”
Trả lời: “Vì
những ai thích chia bè phân phái, phá hòa hợp Tăng đều đã bị đọa vào địa ngục từ
lâu rồi!”.
Hòa Hiệp
Đạo Sư
----------------------
** Ghi
chú: Các trích
dẫn trong bài từ tạng Kinh Nikaya theo bản dịch của HT Thích Minh Châu, từ tạng
Luật Patimokkha theo bản dịch của TK Nguyệt Thiên

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét