77-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP
Phản Bác 48
Giới Khinh Bồ-tát Giới Dại thừa Ba tàu Bà-la-môn
Nguyên văn
“47.- GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP 69
Nếu Phật tử,
đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc vương, Hoàng tử, các quan,
bốn bộ đệ tử tự ỷ thế lực cao quý, phá diệt giới luật Phật pháp, lập
ra điều luật chế, hạn chế bốn bộ đệ tử của Phật, không cho xuất gia hành đạo,
cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ Tát, cùng Tháp và Kinh
luật. Lại đặt ra chức quan đổng lý hạn chế tứ chúng, và lập bộ sổ ghi số
Tăng.
Tỳ Kheo
Bồ Tát đứng dưới đất còn bạch y ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi pháp như
binh nô thờ chủ.
Hàng Bồ Tát
nầy chính nên được mọi người cúng dường, mà trở lại bắt làm tay sai của
các quan chức, thế là phi pháp phi luật.
Nếu Quốc
vương và các quan có lòng tốt thọ giới của Phật, chớ làm những tội
phá Tam Bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm “khinh cấu tội”.”
Chú thích 69
(tr.37): “Bốn bộ đệ tử: (1) cư sĩ, (2) vợ cư sĩ, (3) đồng nam, (4) đồng nữ.
Không cho xuất gia thời là đoạn Tăng bảo; không cho tạo hình tượng,
tháp thời là đoạn Phật bảo; không cho tạo kinh luật thời là đoạn Pháp bảo”
PHẢN BÁC: GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP CỦA BỒ TÁT GIỚI .
Người đã có
lòng tốt thực sự quy y, thọ giới theo Phật thì làm gì có chuyện phá diệt
Tam Bảo, hạn chế bốn chúng, phá hoại Đạo Phật? Nêu điều phi lý này chỉ
chứng tỏ kẻ vẽ ra Bồ-tát giới hứng sao nói vậy, không cân nhắc suy tư cẩn
thận.
Chú thích 69
giải thích: “Bốn bộ đệ tử: (1) cư sĩ, (2) vợ cư sĩ, (3) đồng nam, (4) đồng
nữ” thật phi lý.
Bốn bộ đệ tử
này lấy tư cách gì ‘tự ỷ thế lực cao quý, phá diệt giới luật Phật pháp, lập
ra điều luật chế, đặt ra chức quan đổng lý’? Bốn bộ đệ tử phải hiểu
là bốn hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ.
Còn ‘đồng
nam, đồng nữ’ là ai? Là nam chưa vợ, nữ chưa chồng ư? Phi lý! Vì theo luật
khinh thứ 40 ở trước ‘người thiếu căn, hai căn, huỳnh môn, tôi tớ và
tất cả quỷ thần đều được thọ giới’, tại sao đến đây lại bỏ lờ không tính
các đệ tử Bồ-tát này? Hay ‘đồng nam, đồng nữ’ là các đồng bóng nam, đồng
bóng nữ.
Có thể lắm
vì các đồng bóng này thường là những người dị căn dị tánh, và khi họ
lên đồng có cả quỷ ma nhập vào.
Các đồng
nam, đồng nữ này làm Bồ-tát đệ tử cũng phải
thôi.
Thế nhưng
ngay cho dù có các vua quan theo Phật có bắt bốn bộ đệ tử như trên làm
binh nô, tay sai, phá hoại Tam Bảo, ‘phá diệt giới luật Phật pháp, lập
ra điều luật chế, hạn chế bốn bộ đệ tử của Phật, không cho xuất gia hành đạo’
và ‘làm nhiều việc phi pháp như binh nô thờ chủ’ nhưng Bồ-tát giới
cũng chỉ ban cho tội nhẹ, không phải tội trọng.
Rõ ràng Bồ-tát
giới kính ác pháp ác luật hơn kính Pháp kính Luật của Đức Thế Tôn Thích
Ca Mâu Ni, nên mới xem thường các tội như vậy.
Ai còn tin Bồ-tát
giới mới thực sự thuộc hàng ‘binh nô thờ chủ’.
Đến đây cần
phải mở ngoặc nói thêm về danh xưng ‘Bồ-tát’.
Trong Pháp
và Luật Nguyên thuỷ, danh xưng Bồ-tát được Đức Phật dùng để chỉ các
tiền thân của Ngài, và trong kiếp này lúc Ngài chưa chứng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Chính vì thế, trong các bài kinh Nguyên Thuỷ Đức Phật đã dạy
rành rành thế này:
- Khi còn là
Bồ-tát vẫn còn các niệm ác bất thiện trong tâm (Kinh Song Tầm, Trung Bộ
1).
- Khi còn là
Bồ-tát vẫn còn bị khổ não, sầu bi vì còn ô nhiễm (Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ
1).
- Khi còn là
Bồ-tát chưa có chứng đắc dù là Sơ thiền hoặc các pháp cao hơn nên chưa
thoát khỏi bị dục ái chi phối (Tiểu Kinh Khổ Uẩn, Trung Bộ 1).
- Khi còn là
Bồ-tát vẫn còn nhiều những nghi hoặc, hôn trầm - thùy miên, sợ hãi, bị các
tưởng sai biệt, thậm chí vẫn còn dâm ý (dutthullam) và ái dục...
(Kinh Tùy Phiền Não, số 138, Trung Bộ 3).
Nói tóm lại,
Bồ-tát vẫn còn nhiều phàm trần tục lụy, và mới chỉ biết hướng tâm tìm giải
thoát chứ chưa có chứng đắc gì cả.
Thế nhưng
khi xuất hiện trong các tam tạng cải biến, danh xưng Bồ-tát khác biệt hoàn
toàn.
Danh xưng ‘Bồ-tát’
trong tam tạng mới là cả một đạo quả siêu phàm (Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát
Tự Tại...), có những thần thông phép tắc linh hiển mê hồn để khuất phục kẻ
yếu bóng vía (Bồ-tát Quan Âm, Bồ-tát Văn Thù...), có thể phá luật nhân quả
công bằng vào địa ngục giải cứu tội nhân (Bồ-tát Địa Tạng, Bồ-tát Phổ Hiền)
v.v... và v.v...
Để rồi từ
đây một loạt các luận sư Bà-la-môn như Đại Thiên, Mã Minh, Long Thọ, Thế
Thân, Vô Trước... cũng được “ai đó” vinh thăng làm Bồ-tát, khiến cho các
con Bụt phải sợ hãi kính phục, tin theo sái cổ.
Các ngài nói
trái cũng nghe, nói sai cũng lạy, nói viển vông mơ hồ cũng phải kính cẩn ‘Nám
mô đại Bồ-tát ma ha tát’. Nát cả đám là vậy!
Các
Bà-la-môn gián điệp muốn phá Phật Pháp họ phải cạo đầu đắp y như Phật
giáo, phải sử dụng chính những danh từ của Phật giáo rồi cải biên
xuyên tạc.
Có vậy họ mới
đánh lừa được những kẻ cả tin ngây thơ, mới đào tạo được những ‘con
trùng trong lông sư tử’. Nói cách khác, đây là thủ đoạn ‘dùng dao người để
giết người, dùng vũ khí người để hại người’ mà những tay nham hiểm
thường hay áp dụng.
Tóm lại, những
danh xưng ‘Bồ-tát’, đạo quả ‘Bồ-tát’, giới luật ‘Bồ-tát’, luận sư ‘Bồ-tát’,
thánh tăng ‘Bồ-tát’ về sau này của Đại Thừa giáo, không phải danh
xưng ‘Bồ-tát Gotama’ trong kinh văn Nguyên Thuỷ, đều nằm trong thủ đoạn
này.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét