72-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG GIỚI
Phản Bác 48
Giới Khinh Bồ-tát Giới Dại thừa Ba tàu Bà-la-môn
Nguyên văn “42.-
GIỚI VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG GIỚI 65
Nếu Phật tử,
không được vì tài lợi mà đem đại giới của chư Phật đây nói với người chưa
thọ giới Bồ tát, hoặc với hàng ngoại đạo, những người tà kiến, ... Trừ
Quốc vương, ngoài ra không được nói với tất cả hạng người ấy.
Những hạng
người ấy chẳng thọ giới của Phật, gọi là súc sanh, đời đời sanh ra
không gặp được Tam Bảo, như cây đá, không có tâm thức; gọi là ngoại đạo, bọn
tà kiến, không khác cây cối. Với những hạng người tà ác ấy, nếu Phật
tử giảng nói giới pháp của chư Phật, thời phạm “khinh cấu tội”.”
Chú thích 65
(tr.37): “Trừ Quốc vương, vì Phật đem chánh pháp phó chúc cho Quốc
vương hộ trì. Nếu đem giới này giảng cho người chưa thọ thời có hai
điều bất lợi: (a) hạng căn khí tiểu thừa và ngoại đạo, người ác sẽ sanh niệm
bất kính; (b) về sau lúc thọ giới tâm trân trọng kém. Trong điều giới
39, bảo phải giảng thuyết kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sanh, bất luận
lúc nào và chỗ nào (luật Đại thừa là Bồ Tát giới). Trong điều giới thứ 42
này lại không cho giảng thuyết giới Bồ Tát trước những người chưa thọ giới
Bồ Tát, vậy có chỗ nào mâu thuẫn chăng? ... Xét ra nơi điều giới 39 ở
trong phạm vi giải nạn cứu khổ nên bảo giảng thuyết với tất cả.
Còn trong điều
giới 42 này thời vì ngừa tội lỗi nên cấm giảng cho người chưa thọ giới.
Cứ theo đây
mà suy cứu thời Bồ Tát giới chỉ cấm người chưa thọ dự nghe trong thời bố
tát mỗi nửa thánh, nên khi bố tát, trước khi tụng giới phải bảo người
chưa thọ ra ngoài, còn những lúc khác thì không kể. Không đồng như tiểu thừa
giới (tỳ kheo, tỳ kheo ni giới) thì cấm hẳn, vì người chưa thọ cụ túc
giới mà dự biết danh nghĩa những giới điều của tỳ kheo hay của tỳ kheo ni,
thời thành chướng nạn, đời này không được thọ cụ túc giới. Ý trên đây
là thể theo bộ Hiệp Chú.”
PHẢN BÁC : GIỚI VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG GIỚI CỦA BỒ TÁT GIỚI
Theo giới này ‘người chưa thọ giới Bồ
tát, hoặc với hàng ngoại đạo, những người tà kiến’ đều bị Bồ-tát giới
xếp vào loại người ác (trừ Quốc vương).
Bồ-tát
giới còn nguy hiểm hơn nữa khimạt sát tất cả những ai không thọ giới Bồ-tát (Đại Thừa)
là ‘súc sanh’, ‘như cây đá, không có tâm thức; gọi là ngoại đạo, bọn tà kiến,
không khác cây cối’, ‘những người tà ác’ (?!)
Một kẻ xấu
tâm chỉ cần trưng dẫn giới này, kích động các kẻ ngoại đạo thù ghét Phật
giáo, các Bồ-tát con chỉ còn có nước khốn đốn.
Thế
nhưng đâu phải chỉ có bấy nhiêu, các ‘tam tạng’ đời mới đầy dẫy những
con dao hai lưỡi kiểu này.
Trong lịch
sử, Phật giáo có trải qua những thời kì khốn khổ, bị vua quan tận diệt, âu
cũng không có gì khó hiểu.
Bồ-tát giới
vơ đũa cả nắm, mạt sát mọi người là tà ác, súc sanh, cây đá. Các Bồ-tát
con không bị ngoại đạo trù dập mới là lạ!
Chính vì Bồ-tát
giới là tà giới cho nên nó chất chứa đầy dẫy phi lý và mâu thuẫn.
Ở đây chỉ cần
để tâm một chút cũng thấy sự trái khoáy giữa giới điều 42 này (cấm thuyết
giới Bồ-tát cho người khác); và giới điều 39 (bắt phải giảng thuyết
kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sanh, bất luận lúc nào và chỗ nào).
Theo đây Bồ-tát
cho thọ giới cả các hàng dâm nam, dâm nữ, người thiếu căn, hai căn, huỳnh môn,
tôi tớ và tất cả quỷ thần; ngược lại kẻ ‘tiểu thừa’ thì bị khinh khi chẳng
khác gì ‘súc sanh’, ‘cây đá không tâm thức’, sánh ngang với ‘ngoại đạo,
bọn tà kiến, không khác cây cối’! Rõ ràng sự trái khoáy này càng chứng tỏ
Bồ-tát giới chỉ là sản phẩm của những ác ma tà vạy.
Bên cạnh đó,
chú thích 65 cho giới này cũng chỉ bộc lộ sự lươn lẹo thấu cáy của kẻ đời
sau nhằm khỏa lấp cho sự mâu thuẫn phi lý của Bồ-tát giới. Họ phải vay mượn
các nguyên tắc lễ Uposatha (Bố-tát) của luật Pātimokkha gốc để bao biện
(không cho người chưa thọ giới tham dự lễ Bố-tát của người tu), nhưng lại
giải thích bẻ quặt theo chiều hướng khác (bị ‘chướng nạn’) với thâm ý
coi thường ‘Tiểu Thừa giới’.
Vấn đề cần
phân biệt rõ ở đây để không rơi vào bẫy của ác ma, đó là Luật gốc của Đạo
Phật chỉ không cho người chưa thọ giới Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni tham dự lễ
Bố-tát của tu sĩ; chứ không cấm các cư sĩ biết các giới luật Pātimokkha.
Vì sao như vậy?
Vì lễ Bố-tát
là nếp sinh hoạt nội bộ của bậc tu hành, người chưa thọ giới không tham
gia là lẽ đương nhiên.
Ngược lại,
chính Đức Thế Tôn đã giải thích rõ cho Tôn giả Xá-lợi-phất biết lý
do Phạm hạnh được tồn tại lâu dài hay không là do Chín Tạng Thánh
Kinh có được giảng dạy chi tiết và tạng Luật Pātimokkha có được công bố hay không
(xem ‘Phần Phân Tích Giới Bổn (Suttavibhanga), chương Veranja’).
Chính vì thế trong
Kinh Luật gốc không có chỗ nào cấm phổ biến Kinh Nikaya và Luật
Pātimokkha.
Các cư sĩ có
ý định xuất gia cần phải tìm hiểu cả giới luật của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni để
chuẩn bị cho mình.
Các cư sĩ
khác cũng cần biết giới Pātimokkha để cùng với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni hộ trì
giới hạnh cho nhau.
Ví dụ họ phải
biết có giới nam nữ không được ngồi riêng nơi chỗ khuất vắng để không
vi phạm, hoặc tu sĩ không được xúc chạm với người khác giới dù chỉ là đứa
bé mới sinh v.v... Ngoài ra người cư sĩ nào biết giới luật Pātimokkha
cũng dễ dàng góp ý, nhắc nhở các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phóng dật; nhờ vậy họ mới
thực hiện tốt vai trò của người cư sĩ hộ pháp, hộ tăng.
Chính Đức Thế
Tôn đã dạy: “Tà kiến, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành,
không có hiển lộ... Pháp và Luật được Thế Tôn tuyên thuyết, này các Tỷ-kheo,
chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu” (Tăng Chi 1, chương 3,
trang 516).
Chính vì Bồ-tát
giới chứa đầy tà kiến, tà pháp cho nên phải che dấu, không công bố rộng rãi,
sợ người trí phát hiện phê phán.
Còn
chánh Pháp chánh Luật của Đức Thế Tôn là chánh kiến chánh trực không
cần che dấu trước bất kỳ ai.
Cho nên
trong khi Đức Phật không cấm công bố luật Pātimokkha, thì điều 42 của giới
Bồ-tát cải biến lại cấm phổ biến Bồ-tát giới.
Vì sao lại cấm phổ
biến rộng rãi Bồ-tát giới?
- Vì giới Bồ-tát
có quá nhiều các điều luật tà vạy, vô lý, mâu thuẫn.
Nếu công bố
rộng rãi, những người trí sẽ phát hiện được ngay và phê phán, lúc ấy
thật khó cho Đại Thừa.
- Mọi người
không rõ giới Bồ-tát thế nào cho nên không biết các tu sĩ Đại Thừa có phạm
giới hay không. Và dù các tu sĩ có phạm giới nhưng họ lươn lẹo dối
trá rằng giới luật không cấm, các cư sĩ cũng không biết thực hư để góp ý.
- Riêng
trong một hội chúng với nhau thì lại che dấu tội lỗi cho nhau (giới trọng
thứ 6). Người ngoài nhìn vào thấy ai cũng ăn chay niệm Bụt, vị nào
cũng có vẻ thiền tư nghiêm tịnh; thế nhưng ‘trong chăn mới biết chăn có rận’.
Tóm lại với
điều luật 42 chỉ vỏn vẹn vài dòng, nhưng ẩn chứa nhiều mâu thuẫn bất cập
và gây tai hại cho Phật giáo.
Ai còn tin Bồ-tát
giới là giới của Phật Thích Ca, họ mới chính là những ‘kẻ tà kiến, tà
ác, súc sanh, đời đời sanh ra không gặp được Chánh Tam Bảo, như cây đá,
không có tâm thức, không khác cây cối’. Phải mượn Bồ-tát giới nặng lời
như vậy để mong ai đó hãy tỉnh mau kẻo trễ!

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét