71-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI VÌ LỢI LÀM THẦY
Phản Bác 48
Giới Khinh Bồ-tát Giới Dại thừa Ba tàu Bà-la-môn
Nguyên văn
“41.- GIỚI VÌ LỢI LÀM THẦY 64
Nếu Phật tử,
giáo hóa người sanh lòng tin tưởng pháp Đại thừa, Bồ tát làm Pháp sư giáo
giới cho người, lúc thấy có người muốn thọ giới Bồ tát, nên bảo người
ấy thỉnh hai đại sư: Hòa thượng và A xà lê. Phải hỏi người ấy có phạm tội
thất nghịch không? Nếu người ấy hiện đời có phạm tội thất nghịch, thời
Pháp sư không được cho người ấy thọ giới.
Như không phạm
tội thất nghịch thời cho thọ giới.
Nếu có phạm
trong mười giới trọng, phải bảo người ấy sám hối; đối trước tượng Phật và
Bồ tát, ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ tát, tha thiết đảnh lễ tam thế
chư Phật, cho được thấy hảo tướng.
Sám hối như
thế trong bảy ngày, mười bốn ngày, hăm mốt ngày, nhẫn đến trọn năm, mãi đến chừng
nào thấy được hảo tướng.
Đây là hảo tướng:
Thấy Phật đến xoa đầu mình, thấy quang minh, thấy hoa báu, v.v... các thứ
cảnh tượng lạ.
Thấy
được những hảo tướng ấy là triệu chứng tội đã tiêu diệt. Nếu không được thấy
hảo tướng, dầu có sám hối vẫn vô ích.
Người này hiện
đời cũng không đắc giới, nhưng đặng tăng ích thọ giới.
Nếu là
người phạm trong bốn mươi tám điều giới khinh, đối thủ sám hối, thời tội đặng
tiêu diệt, không phải như tội thất nghịch.
Vị Pháp sư
giáo giới ở trong những pháp này phải hiểu rõ. Nếu không hiểu kinh luật Đại
thừa, những giới khinh, giới trọng, hành tướng phải, chẳng phải;
không hiểu đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưỡng tánh, tánh chủng
tánh bất khả hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh.
Những quán hạnh
đa, thiểu, xuất, nhập của trong các pháp đó, cùng mười chi thiền, tất cả pháp
hạnh, mỗi mỗi đều không thông hiểu.
Phật tử
vì tài lợi, vì danh tiếng, cầu quấy, cầu nhiều, tham đệ tử đông nên giả tuồng
là mình hiểu biết tất cả kinh luật, để được cúng dường, đó là tự dối mình
mà cũng khi-dối người khác.
Nếu cố
làm Giới sư truyền giới cho người, Phật tử này phạm
“khinh cấu tội”.”
Chú thích 64
(tr.36-37): “Trong nghi Giới Đàn: Giới sư dạy cho người cầu giới Bồ Tát thỉnh Thích
Ca Mâu Ni Phật làm Hòa Thượng, thỉnh đức Văn Thù và đức Di Lặc làm A Xà
Lê.
Sám hối
có ba cách: (a) Tác pháp sám hối: người có tội đối truớc chư Tăng, hoặc
hai mươi vị, bốn vị, ba vị, một vị mà phát lồ sám hối, tùy theo tội lớn nhỏ;(b)
Thủ tướng sám hối: tức là sám hối cho được thấy hảo tướng; (c) Vô sanh sám
hối: quán chơn lý thật tướng, chứng ngộ vô sanh thời tội diệt.
Vô sanh
sám hối có thể diệt tất cả tội, dầu là tội thất nghịch; Thủ tướng sám có
thể diệt tội thập trọng và tất cả tội khinh; Tác pháp sám hối chỉ trừ được
tội khinh.
-- Đối thú sám hối tức là Tác pháp sám hối.
Đệ nhất
nghĩa đế là thể tánh của giới pháp, là chánh nhơn của tâm địa, là lý cảnh
của chơn trí.
Tập chủng
tánh, trưởng dưỡng tánh, là do nghiên cứu tu tập không quán lần lần tăng
trưởng, tức là Thập phát thu tâm.
Tánh chủng
tánh, bất khả hoại tánh là do phân biệt giả tánh (giả quán) mà tục đế kiến
lập nên không thể hoại, tức là Thập trưởng dưỡng tâm. Đạo chủng tánh là
trung đạo Thập kim cương tâm.
Chánh pháp
tánh là chứng nhập chánh vị (chơn như) tức là Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác.
Những quán hạnh
đa, thiểu, xuất, nhập trong các pháp đó: nghĩa là Phát thu tâm thời từ giả
nhập không quán; Trưởng dưỡng tâm thời xuất không quán nhập giả quán;
Kim cương tâm thời xuất không giả nhập trung đạo quán; Thập địa thời nhập
Thánh. Tập chủng tánh thời không quán thiểu (ít); Trưởng dưỡng tánh thời
không quán đa (nhiều); Tánh chủng tánh thời giả quán thiểu; Bất khả
hoại tánh thời giả quán đa; Đạo chủng tánh thời trung quán thiểu; Chánh
pháp tánh thời trung quán đa.
Lai tam quán
(không giả trung) theo tuần tự mà tu thời là thiểu, còn tu tập cả trong nhất
tâm thời là đa.
Mười chi thiền:
Sơ thiền có 5 chi: (1) giác, (2) quán, (3) hỉ, (4) lạc, (5) nhứt tâm. Nhị
thiền có 4 chi: (1) Hỉ, (2) lạc, (3) nhất tâm, (4) nội tịnh.
Tam thiền có
5 chi: (1) lạc, (2) nhứt tâm, (3) xả, (4) niệm, (5) huệ. Tứ thiền có 4
chi: (1) nhứt tâm, (2) xả, (3) niệm, (4) bất khổ bất lạc. Nói tổng
quát thời có mười chi thiền: ((1) giác, (2) quán, (3) hỉ, (4) lạc,
(5) nhứt tâm, (6) nội tịnh, (7) xả, (8) niệm, (9) huệ, (10) bất khổ bất lạc.
Trong văn,
không hiểu giới khinh, trọng, thị, phi, thời mù mờ nơi giới tướng, không
thể quyết nghi xuất tội.
Không hiểu đệ
nhất nghĩa đế, thời mù mờ nơi giới lý (thể tánh của tất cả giới),
không thể phát khởi chơn thiệt tín giải.
Không hiểu tập chủng
tánh, v.v..., thời mù mờ nơi định cộng giới, không thể tu chứng quả vị.
Không thông hiểu như thế mà lại làm tuồng là thông hiểu để được
cúng dường nhiều, đệ tử đông, thành tội khi dối.”
PHẢN BÁC : GIỚI VÌ LỢI LÀM THẦY CỦA BỒ TÁT GIỚI.
‘Hảo tướng’
của Bồ-tát giới chính là các trạng thái của tưởng, ảo giác, không có thực.
Những hảo tướng
theo kiểu ‘Thấy Phật đến xoa đầu mình, thấy quang minh, thấy hoa báu,
v.v...
các thứ cảnh
tượng lạ’ dễ thấy trong các giấc mơ hoặc ảo giác. Ai không đồng ý hãy chứng
minh cho mọi người ‘thấy Phật đến xoa đầu mình, thấy quang minh, thấy
hoa báu, v.v... các thứ cảnh tượng lạ’.
Chính vì thế,
nếu không thấy ‘hảo tướng’ trong các giấc mơ thì cứ bịa ra thấy hảo tướng,
lúc ấy xem ai bác bỏ được.
Cho nên một
kẻ phạm mười giới trọng (sát sanh, trộm cướp, dâm dục...), chỉ cần dối
trá một chút là ‘sám hối’ thấy ngay ‘hảo tướng’, hoặc ‘chứng ngộ vô sanh’,
mọi tội ác đều tan, thành Bồ-tát con dễ dàng (?)
Khi đã thành
Bồ-tát, dù có phạm 48 giới khinh như uống rượu (giới thứ 2), buôn bán
phi pháp (g.12), phóng hỏa thiêu đốt (g.14), cậy thế lực quyên góp
(g.17), nuôi sống bằng tà mạng (g.29), tổn hại chúng sanh (g.32), phá
pháp (g.48)... chỉ cần tự sám hối, hoặc đối trước hội chúng là tiêu
tan hết mọi tội lỗi, xóa sạch nhẹ nhàng???
Đây chính là
chỗ tà đạo của Bồ-tát giới mà chỉ có những người ngây thơ, thiếu cảnh giác
mới không nhận ra.
Thực ra những
kẻ đời sau không nhận ra sự ma giáo của giới này cũng phải.
Bởi lẽ, kẻ
vẽ ra Bồ-tát giới và chú thích đã khỏa lấp nó bằng một chuỗi các nhận thức
pha màu khác, như đánh đồng Phật Thích Ca làm Hoà thượng, Văn Thù -
Di Lặc làm A-xà-lê, nói lan chuyện ‘chủng tánh’, ‘chi thiền’ v.v...
Những ai cho
rằng mình đã hiểu tường tận những khái niệm trong giới điều 41 và chú
thích 64, hãy chứng minh các kiến thức này giúp diệt khổ như thế nào,
hay chúng chỉ là mớ danh từ hổ lốn, nửa trắng nửa đen để mê hoặc những kẻ
ngây thơ.
Một khi các
Bụt tử đã bị dẫn dắt vào đây họ sẽ dễ dàng bị chi phối khiến không thể nhận
ra cá móc câu nguy hiểm bên trong những miếng mồi nguỵ trá này. Người
Phật tử tỉnh giác đọc kĩ các kinh - luật - luận ngụy tạo đều có thể dễ
dàng phát hiện thủ đoạn này.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét