69-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ
Phản Bác 48
Giới Khinh Bồ-tát Giới Dại thừa Ba tàu Bà-la-môn
Nguyên
văn “39.- GIỚI KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ 63
Nếu Phật tử
thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo tăng phường nơi núi rừng vườn
ruộng, xây dựng Phật tháp, chỗ an cư, tọa thiền trong mùa Ðông mùa Hạ, tất
cả những cơ sở hành đạo đều nên kiến tạo.
Người Phật tử
phải giảng thuyết kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sanh.
Lúc tật bệnh,
nước có nạn có giặc, ngày cha, mẹ, anh, em, Hòa Thượng, A Xà Lê khuất tịch,
và mỗi tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất, cũng nên giảng thuyết kinh
luật Đại thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những
khi có tai nạn lụt, bão, hỏa hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to
biển lớn, gặp quỷ La sát v.v... đều cùng đọc tụng kinh luật Đại thừa. Nhẫn
đến tất cả tội báo, tam ác, bát nạn, thất nghịch gông cùm xiềng xích
trói buộc tay chân, hoặc ngưòi nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu si, nhiều tật
bệnh, đều nên giảng kinh luật Đại thừa nầy. Nếu hàng tân học Phật tử
không thật hành như trên đây, thời phạm “khinh cấu tội”.”
Chú thích 63
(tr.36): “Là Phật tử phải nhận chơn những tai nạn, họa phước và sự lợi
ích.
Họa hay
phước là do nghiệp ác hay thiện chiêu cảm.
Nghiệp từ
nơi tâm mà phát khởi. Kinh luật Đại thừa có năng lực chuyển tâm ô trược
thành thanh tịnh, chuyển tâm ác thành tâm thiện, chuyển tâm si mê
thành tâm giác ngộ. Đọc tụng giảng thuyết kinh luật Đại thừa là một thiện
nghiệp cao quý.
Vì thế
nên có thể làm cho người chết, vong linh được siêu sanh, ngưòi gặp tai nạn
được qua khỏi.
Có thể ngừa
những sự không may và đem hạnh phúc đến.
Phật tử bao
giờ cũng phải có tín tâm sâu mạnh nơi năng lực của giáo pháp Đại thừa, bao
giờ cũng lấy sự giải nguy, cứu khổ làm phận sự, nên bổn phận của Phật
tử phải giảng kinh luật Đại thừa trong những trường hợp có tai biến xảy đến
cho người hay cho mình.”
PHẢN BÁC : GIỚI KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ CỦA BỒ TÁT GIỚI.
Bồ-tát giới
chỉ nói ‘tọa thiền trong mùa Ðông mùa Hạ’, còn mùa Xuân, mùa Thu không tọa
thiền ư? Luật của bậc Thánh không thể dễ duôi nói sao cũng được.
Nếu nói mùa
Đông lạnh, mùa Hạ nóng cần có chỗ thích nghi tu thiền thì thua các vị Tỳ-kheo Thanh
Văn Nhị Thừa rồi.
Các vị này lấy
gốc cây làm nhà, lấy hang đá làm cốc, chứ cần chi thiền viện. Vì sao?
Vì ‘tất cả những cơ sở hành đạo’ dù to lớn đến đâu cũng vô thường biến hoại,
chính vì thế nếu không dốc lòng lo tu tập, chỉ thi nhau kiến tạo chùa
to viện lớn, khi vô thường đến phải biến thành những con dã tràng xe cát
biển đông.
Lúc có giặc
giã, bão lụt, hoả hoạn mà ngồi đó tụng niệm thì nhiệm màu đâu không thấy,
chỉ thấy có chết oan.
Trong thời kỳ
Phật giáo bị tận diệt, hàng triệu người tụng kinh luật Đại Thừa sao vẫn
chết oan? Có vị nào hồi sinh để kiện kẻ vẽ ra Bồ-tát giới?
Còn trong
tai nạn nếu vài người được may mắn sống sót, thế là tất cả tung hô Bồ-tát
linh thiêng, Bụt Bà linh ứng. Những kẻ yếu bóng vía đều tin ngay răm
rắp và quên rằng có biết bao những kẻ khác cũng cầu nguyện Bụt, Bồ-tát nhưng
tất cả đều một đi không trở lại. Ai yếu bóng vía cứ lấy kinh luật Đại Thừa mà
tụng cho những kẻ diệt chủng ‘thất nghịch gông cùm xiềng xích trói buộc
tay chân’ xem có tên nào nhờ thế được phóng thích.
Nếu kinh luật Đại
Thừa thực sự có oai linh cứu thoát mọi tội lỗi, như vậy còn gì là công bằng
nhân quả? Còn gì là công lý nhân bản?
Còn chuyện
‘Kinh luật Đại thừa có năng lực chuyển tâm ô trược thành thanh tịnh, chuyển
tâm ác thành tâm thiện, chuyển tâm si mê thành tâm giác ngộ’ có thật
không, xin mời các bậc thiện trí thức đọc kỹ kinh luật Đại Thừa khắc
rõ.
Ở đây chỉ nêu
vài ví dụ điển hình:
- Trích phẩm
“Hạnh nguyện Phổ Hiền”, kinh đại thừa Hoa Nghiêm: “Đối với mười đại nguyện này,
có ai đem lòng tin sâu xa mà tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng đọc
thuộc lòng, cho đến chỉ sao chép được một bài chỉnh cú bốn câu, cũng
mau chóng diệt được năm tội vô gián”.
(Bản dịch của
HT Thích Trí Quang).
Theo lời
nguyện trên, những ai sao chép bài chỉnh cú bốn câu Hoa Nghiêm này sẽ
không còn sợ năm tội vô gián: giết mẹ, giết cha, giết A La Hán, làm
Phật chảy máu, phá hoà hợp Tăng gì nữa ư? Đấy là ‘năng lực chuyển tâm ô
trược thành thanh tịnh’ của kinh luật Đại Thừa sao?
- Nguyện thứ
20 của Bụt A Di Đà: “Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe
danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi, và tu các công đức, chí tâm hồi
hướng, muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Chiếu theo
nguyện trên, những người nổi tiếng dâm ác như “Lão Phật gia” Từ Hi Thái Hậu có
thừa điều kiện được độ thoát về Tây phương Cực lạc.
Còn biết bao
các nạn nhân thiện lành nhưng không biết niệm A-di-đà ráng chịu.
Trong 48
đại nguyện, ngài A Di Đà đều quên phát nguyện cứu họ. Đấy là ý nghĩa chuyển
tâm ác thành tâm thiện của kinh luật Đại Thừa ư?
- Trích kinh
Dược Sư, nguyện thứ mười của Bụt Dược Sư: “Nguyện con sau này, khi được tuệ giác
vô thượng, thì những kẻ bị phép vua ghi sổ, xích trói đánh khảo, giam nhốt
lao ngục, sắp bị hành hình, cộng với vô lượng tai nạn khổ nhục và bi
thảm sầu muộn khác nữa, ngâm nấu bức bách, làm cho cả cơ thể lẫn tâm trí đều
chịu thống khổ, nhưng nghe danh hiệu của con, thì vì năng lực phước đức
và uy thần của con mà họ thoát hết mọi sự lo sợ khổ sở.”
Chiếu theo
nguyện trên, các vị muốn lợi tha cứ vào các trại tù, tụng hồng danh Bụt Dược
Sư để cứu rỗi những kẻ ác giải thoát. Họ có ra ngoài tạo tội vào tù
trở lại cũng không còn phải lo sợ khổ sở gì nữa. Đấy gọi là ‘chuyển tâm si
mê thành tâm giác ngộ’ của kinh luật Đại Thừa.
Trên đây chỉ
trích dẫn vài ví dụ thôi, không sao nói hết được. Tam tạng Đại Thừa giáo
là cả một kho ‘cứu khổ, giải nguy’ cho biết bao tội nhân, ác hạnh,
phá giới, nghịch hạnh?!
Tuy Đại Thừa
giáo tà vạy như vậy, thế nhưng vẫn còn một số kẻ tin theo.
Đó không phải
do Đại Thừa có điều gì cao siêu tốt đẹp, mà do các tổ sư gián điệp
tinh ma biết giả danh Phật Thích Ca, biết mạo danh pháp của Phật Thích Ca,
biết giả danh là con Phật Thích Ca, có vậy họ mới lôi cuốn được những
người mất cảnh giác.
Các tổ sư
gián điệp dựa vào một số pháp căn bản của Phật giáo (ví dụ như năm giới, Từ
Bi Hỷ Xả, bố thí, ly dục...), sau đó họ cải biên cấy ghép thêm vào
các tà pháp một cách khéo léo, khiến những người ngây thơ tưởng lầm tất cả
những pháp cải biến thêm vào đều là pháp của Phật Thích Ca.
Từ đây các Bụt
tử Đại Thừa mới bị dẫn dắt theo một mê lộ khác, trái ngược với tinh thần gốc, tự
cao với pháp luật mới, quay lại khinh chê pháp luật chính gốc.
Đây chính là
kế sách gián điệp và thủ đoạn ‘dùng vũ khí người để giết người’. Chỉ có
như vậy các luận sư ngoại học thâm độc mới có thể phá hoại được Phật
giáo.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét