47-BỒ TÁT GIỚI: GIỚI KHÔNG THÔNG HIỂU
MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI .
Phản Bác 48
Giới Khinh Bồ-tát Giới Dại thừa Ba tàu Bà-la-môn
Nguyên văn
“18.- GIỚI KHÔNG THÔNG HIỂU MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI 45
Nếu Phật tử
phải học mười hai phần kinh, thường tụng giới.
Mỗi ngày sáu
thời, nghiêm trì Bồ Tát giới, hiểu rõ nghĩa lý tính Phật tính của giới.
Nếu Phật tử
không hiểu một kệ một câu cùng nhân duyên của giới luật, mà dối rằng thông
hiểu, đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác.
Không hiểu một
pháp, không biết một luật mà lại đi làm thầy truyền giới cho người.
Phật tử nầy
phạm “khinh cấu tội”.”
Chú thích 45
(tr.34): “Tất cả các kinh của đức Phật thuyết giáo, chia ra từng loại thì
có 12 phần:
(1) “Trường
hàng” (văn xuôi), (2) “Trùng tụng” (văn vần lặp lại những điều đã giảng),
(3) “Cô khởi” (văn vần đi riêng), (4) “Nhân duyên” (gợi Phật thuyết
pháp, cũng gọi là Duyên khởi),
(5) “Bổn sanh”
(những đời trước của Phật, của Bồ
tát),
(6) “Bổn sự”
(những việc trong đời quá khứ của Phật, Bồ tát), (7) “Vị tằng hữu” (sự hay
lý nghĩa làm chúng ngạc nhiên vì thuở giờ chưa từng có),
(8) “Tỉ dụ”
(mượn dụ để chỉ Pháp),
(9) “Luận nghị”
(biện luận chánh nghĩa),
(10) “Tự
thuyết” (không ai thưa thỉnh, Phật tự giảng nói,
(11) “Phương
quảng” (giáo lý Đại thừa),
(12) “Thọ
ký” (Phật thọ ký cho chư Bồ tát, hay đệ tử bao giờ thành Phật, hiệu
gì, ở đâu, v.v....) Trong 12 phần, 3 phần Trường hàng, Trùng tụng và Cô khởi
là thể tài của kinh văn, ngoài ra chín phần kia là những điều, những
sự trong kinh văn mà phân loại ra.”
PHẢN BÁC : GIỚI KHÔNG THÔNG HIỂU MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI CỦA BỒ
TÁT GIỚI.
Các tổ sư
gián điệp vẽ ra ‘Mười hai phần kinh’, chứ qua tất cả các đời chư Phật trước
sau chỉ có Chín Tạng Thánh Kinh mà thôi. Chín hệ thống Thánh Tạng đó
là:
1. Khế Kinh
(Suttaṃ),
2. Ứng
Tụng (Geyyaṃ),
3. Biện Giải (Veyyākaraṇaṃ),
4. Kệ Tụng (Gāthā),
5.
Không Hỏi Tự Nói (hay Cảm Hứng Ngữ - Udānaṃ),
6. Phật
Thuyết Như Vậy (Itivuttakaṃ),
7. Bổn
Sanh (Jātakaṃ),
8. Vị Tằng Hữu
(Pháp Chưa Từng Có -Abbhūtadhammaṃ),
9. Phương Quảng (Vedallaṃ).
Ai nói ‘Mười hai phần kinh’ của Đại Thừa giáo là chánh giáo, hãy chứng
minh trong Kinh Luật gốc có chỗ nào nêu lên ‘Mười hai phần kinh’ này.
Chắc chắn là không có. Vậy ‘Mười hai phần kinh’ chỉ là sản phẩm của kẻ đời
sau vẽ ra.
Xét ngay
trong ‘Mười hai phần kinh’ cũng đủ thấy những bất cập, không xứng thánh tạng
của bậc trí. Ai không nhận ra những bất cập này, làm ơn giải thích rõ
việc tách tạng thứ (5) “Bổn sanh” (những đời trước của Phật, của Bồ tát),
với tạng thứ (6) “Bổn sự” (những việc trong đời quá khứ của Phật, Bồ
tát) có ý nghĩa gì? Nếu nói ‘bổn sự’ là quá khứ kiếp này, còn ‘bổn sanh’
là quá khứ kiếp trước, vậy Phật dạy phân chia này trong kinh gốc nào?
hay đây chỉ do kẻ đời sau vẽ ra để khỏa lấp Chín Tạng Thánh Kinh gốc của
Phật? Hẳn, Bồ-tát giới và chú thích đều phiến diện, vô căn cứ.
- Tạng Cô khởi
khác gì Trùng tụng. Không lẽ (Cô khởi) ‘Văn vần đi riêng’ không phải là
‘văn vần lặp lại những điều đã giảng’ (Trùng tụng)?
Phật dạy
phân chia hai tạng này trong kinh gốc nào? Sự phân biệt như vậy có ý nghĩa
gì, hay chỉ do kẻ trước nói sao, người sau lao theo chấp nhận?
- Riêng tạng
Phương Quảng, trong hệ Pali có Đại Kinh Phương Quảng do ngài Xá-lợi-phất thuyết,
còn Tiểu Kinh Phương Quảng do Thánh nữ Dhammadinna thuyết.
Như vậy
Phương Quảng chính là tạng kinh do các Thánh Tăng Thánh Ni thuyết giảng
mở rộng giáo pháp của Phật, và được chính Đức Thế Tôn khả chứng; chứ không
phải Đại Thừa kinh do các tổ sư Bà-la-môn giới thiệu.
Vả lại nếu
nhận vơ giáo lý Đại Thừa là “Phương Quảng” như chú thích 45, như vậy
các tam tạng Đại Thừa cũng thuộc hệ Thanh Văn Nhị Thừa, do vậy theo Bồ-tát
giới cũng không nên thọ trì tụng đọc, nên dẹp bỏ!
Rõ ràng sự
mâu thuẫn này đã tố cáo sự lươn lẹo của kẻ đời sau: khi muốn hợp thức hoá
các kinh văn cải biến thì nhận vơ chúng thuộc ‘Nguyên thuỷ’, nhưng
khi muốn chống lại Nguyên thuỷ thì tách ra nói chúng là đại giáo thừa.
Thế gian nói
đúng thật không sai “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” là vì vậy.
Trở lại giới
18, một Bồ-tát con dù ‘không hiểu một pháp, không biết một luật mà lại đi
làm thầy truyền giới cho người’, tức là lường gạt người.
Tội trạng
như thế lại cho là nhẹ, Bồ-tát giới là giới của những kẻ lường gạt hay giới
của những người chân chánh?
Ngay cho dù
một Bồ-tát con thông hiểu pháp Đại Thừa và Bồ-tát giới, nếu có áp dụng
đúng pháp luật Đại giáo, nhưng xúi người ‘đốt thân, hoặc đốt cánh
tay, đốt ngón tay... Nhẫn đến xả thịt nơi thân cùng tay chân mà bố thí cho
tất cả những cọp, sói, sư tử đói, cùng tất cả loài quỷ đói’ (giới
khinh 17), hoặc dụ người ‘tự bán thân cho đến quốc thành con cái,
cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bậc ấy’ (giới khinh 1), hoặc
xui người cung hiến ‘tất cả đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cấp
hộ cho pháp sư’ (giới khinh 6), hoặc ép cả người nghèo ‘Nếu tự mình
không có, thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán,
để sắm đồ cung cấp cho những khách Tăng ấy’ (giới khinh 26)... như vậy
đây mới là vị pháp sư chân chánh của Đại Thừa Bồ-tát giới ư?
Đại Thừa Bồ-tát
giới xúi dại con Phật đến như thế, nếu không phải quái đạo thì còn là
gì nữa?

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét