120-MẬT TÔNG GỐC HINDU GIÁO!
Thật vậy, biểu
tượng tạo hình hoa Mạn-đà-la (Mandala) của Mật Tông chính là kế
thừa tập tục của phái bện tóc ngoại học. Nghi thức này được các ngoại học dùng
trong buổi lễ đặc biệt như các đại tế đàn, đón vua, đám cưới...
Thêm vào đó,
việc dạy nhau tụng chú cũng chính là truyền thống của
các Bà-la-môn chứ không của ai khác. Một vài đoạn trích lược
Chánh Kinh dưới đây là những minh chứng cụ thể:
卐 Trích Kinh Sena, số 92, Trung Bộ II
“… Các thân
hữu, bà con huyết thống của bện tóc Keniya vâng đáp bện tóc
Keniya. Có người thời đào hố (làm lò nấu); có người bửa củi; có người rửa chén
bát; có người sắp đặt ghè nước; có người sửa soạn ghế ngồi; còn bện tóc
Keniya tự mình dựng lên một giàn hoa hình tròn (Mandalamala).
Lúc bấy giờ Bà-la-môn
Sela trú tại Apana, vị này tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ
nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm,
thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng. Vị này dạy chú thuật (manta)
cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn.
Lúc bấy giờ
bện tóc Keniya có lòng tín thành với Bà-la-môn Sela. Rồi Bà-la-môn Sela, với ba
trăm thanh niên Bà-la-môn vây quanh, tản bộ du hành đi đến tinh xá của bện tóc
Keniya.
Bà-la-môn
Sela thấy tại tinh xá của bện tóc Keniya, có người thời đào hố (làm lò nấu); có
người bửa củi; có người rửa chén bát; có người sắp đặt ghè nước; có người sửa
soạn ghế ngồi; còn bện tóc Keniya tự mình dựng lên một giàn hoa hình tròn. Thấy
vậy, Bà-la-môn Sela bèn nói với bện tóc Keniya:
-- Có phải bện
tóc Keniya sẽ rước dâu hay sẽ đưa dâu, hay một đại tế đàn được chuẩn bị, hay
vua Seniya Bimbisara nước Magadha được mời ngày mai với cả binh lực?
-- Thưa Tôn
giả Sela, tôi không có rước dâu, cũng không đưa dâu, vua Seniya Bimbisara nước
Magadha không có được mời ngày mai với cả binh lực, nhưng tôi chuẩn bị
một đại tế đàn. Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya, du
hành ở Anguttarapa cùng với đại chúng Tỷ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, và
đã đến Apana. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về Tôn giả Gotama được khởi lên:
"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn." Vị ấy được con mời ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo.”
卐 Trích Kinh Ambattha, MN 3
“Lúc bấy giờ
Thế Tôn nghĩ rằng: "Các thanh niên đã phỉ báng quá đáng thanh niên
Ambattha là con một nữ tỳ rồi. Nay Ta hãy giải tỏa cho Ambattha". Rồi Thế
Tôn nói với các thanh niên:
- Các thanh
niên, các ngươi chớ có phỉ báng quá đáng thanh niên Ambattha là con một nữ tỳ.
Kanha ấy trở thành một tu sĩ vĩ đại. Vị này đi về miền Nam, học các chú
thuật Phạm thiên, rồi về yết kiến vua Okkāka và yêu cầu gả công chúa Khuddarūpi cho mình…
- Và những
người Bà-la-môn có dạy các chú thuật hay không?
- Tôn giả
Gotama, có dạy.”
卐 Trích Kinh Sonadanda (Chủng Ðức), số
4, Trường Bộ I
--- “13. Rồi
Bà-la-môn Sonadanda ngồi thẳng lưng, nhìn xung quanh hội chúng và bạch Đức Thế
Tôn:
- Có năm đức
tánh, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể khi
nói: "Tôi là Bà-la-môn ", lời nói ấy chơn chánh, không phải là lời
nói dối. Thế nào là năm?
Ở đây, này
Tôn giả, người Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ,
huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không
bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh.
Vị ấy
là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedā với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ
nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn
phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân.
Vị ấy đẹp
trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn
tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
Vị ấy có đức
hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày.
Và vị ấy là
người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những
người cầm muỗng (để đổ bơ làm lễ tế thần).
Này Tôn giả
Gotama, đó là năm đức tánh, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là
Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy là
chơn chánh, không phải là lời nói dối.
] Ý
kiến Phật Tử: Đấy
là từ Chánh Kinh chính gốc. Chỉ có điều, ngay cho dù trì chú đối
với các Bà-la-môn là một trong năm đức tánh căn bản, thế nhưng
chính những Bà-la-môn cũng sẵn sàng từ bỏ trì chú để giữ lại
những đức tánh khác.
Trong bài
kinh trên, Đức Thế Tôn hỏi Bà-la-môn Sonadanda có thể bỏ những đức tánh nào vẫn
có thể xem là một Bà-la-môn. Sau khi Bà-la-môn trưởng lão Sonadanda đã từ bỏ yếu
tố dung sắc, chỉ còn giữ lại bốn đức tánh (huyết thống, trì chú, đức hạnh, học
rộng), Đức Thế Tôn đã hỏi tiếp:
“- Này
Bà-la-môn, trong bốn đức tánh này, có thể bỏ qua một đức tánh
nào, chỉ có ba đức tánh thôi, mà vẫn có thể gọi là Bà-la-môn và để có thể khi
nói: "Tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy là lời nói chơn chánh, không phải
là lời nói dối.
- Tôn giả
Gotama, có thể được. Tôn giả Gotama, trong bốn đức tánh này, chúng tôi có thể bỏ
chú thuật. Thật vậy, chú thuật làm được gì?...”
] Thế đấy,
ngay như các Bà-la-môn mà còn sẵn sàng ném bỏ trì chú, thứ “chẳng
làm được gì”, ấy thế mà các đệ tử Đại Thừa và Mật Tông, tin theo các tổ sư
gốc Bà-la-môn, lại
quơ lấy đồ phế thải của họ rồi thi nhau tụng hót: “Yết đế, yết đế, ba la tăng,
yết đế… là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng
chú”, đã thế còn dám “bắt” ba đời chư Bụt phải nương theo cái pháp “Ba-la-mật” rỗng
không hư ngụy (!?)
Quả thật,
các đệ tử của trì chú đã không còn biết cửa địa ngục đang rộng mở chờ đón mình!
] Đương
nhiên, các luận sư Bà-la-môn đứng ngoài Đạo Phật có hô hào cả ngàn năm rằng các pháp trì chú, đồ
hình Mandala và “Aj-jun Ngàn tay giáng tai ương” không
phải của họ mà của chính Đạo Phật; chắc hẳn chẳng có Phật tử nào thèm tin họ.
Thế nhưng, các luận sư Bà-la-môn chỉ cần cải trang thành các Tổ sư, Đại sư, Bồ-tát
của Phật giáo là tức khắc có biết bao tín đồ tin theo.
Chỉ có những
kẻ quá ngây thơ khờ dại mới nghĩ rằng thế gian này chỉ có một mình Triệu
Đà và Trọng Thủy là biết dùng kế sách gián điệp để
đánh tráo nỏ thần thật bằng nỏ thần giả, phá tan thành trì của kẻ khác.
Và cũng chỉ
có những “hài nhi tóc bạc” ngây thơ hơn cả con nít, mới không biết rằng con cáo
muốn lừa bà ngoại của cô bé quàng khăn đỏ, nó phải giả tiếng của chính người
thân của bà.
Và cũng chỉ có
những kẻ cả tin ngây thơ như nhân dân thành Troy mới tự rước
‘Con ngựa gỗ to lớn trên cỗ xe đại pháo’ vào trong thành trì của mình để rồi bị
tiêu diệt.
Chính vì thế,
cũng chỉ có những người này mới nhắm mắt tin rằng các câu thần chú “Yết đế, yết
đế, ba la yết đế… Úm ma ni bát mệ hồng…” …”, đồ hình
Mạn-đà-la là của
chính Đạo Phật.
Những đệ tử
Mật Tông, Đại Thừa còn chờ đến bao giờ mới chịu tỉnh ngộ đây?
Theo PHẬT
HỌC CHÁNH TÔNG

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét