81-CON NGỰA THÀNH TROY/ 1
Thần Hộ Pháp
Dhammapāla quán sát hai cõi Trời - Người, thấy cơ duyên đã hội đủ liền như
người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến
mất ở Thánh Pháp Xứ và hiện ra tại giữa cung trời Abhibhū.
Đại Phạm
Thiên Sahampati, vị cai quản cung trời, mừng vui kính cẩn chào đón Thần Hộ Pháp
với lễ nghi cao nhất. Thấy dáng vẻ trang nghiêm đặc biệt của Thần Hộ Pháp, Đại
Phạm Thiên Sahampati biết ngay có việc rất hệ trọng nên càng cẩn thận tiếp rước
hơn nữa.
Vừa an vị
xong, sau vài câu thăm hỏi xã giao, Thần Hộ Pháp đặt ngay vấn đề:
_ Xin hỏi Đại
Phạm Thiên Sahampati, hiền giả có biết các câu kệ sau đây của Đức Thế Tôn được
ghi lại trong cuốn kinh nào không:
"...3. Nó mắng tôi, đánh tôi!
Nó hại tôi, cướp
tôi!"
Ai ôm oán niệm
ấy,
Hận thù
không thể nguôi.
4. "Nó mắng tôi, đánh tôi!
Nó hại tôi,
cướp tôi!"
Không ôm oán
niệm ấy,
Hận thù sẽ tự
nguôi.
5. Hận thù diệt hận thù,
Không đời
nào diệt được,
Từ bi diệt hận
thù,
Là định luật
ngàn thu.
6. "Người khác không hiểu biết,
Ở đây ta bị
diệt",
Những ai hiểu
điều này,
Nhờ vậy,
tranh luận tiêu”?
Thần Hộ Pháp
vừa dứt lời, Đại Phạm Thiên Sahampati kính cẩn trả lời ngay:
_ Dạ thưa,
đó là các bài kệ số 3, 4, 5 và 6 trong Phẩm Song Yếu của kinh Pháp Cú.
Thần Hộ Pháp Dhammapāla gật
đầu xác nhận, giọng càng trịnh trọng hơn:
_ Dám hỏi hiền
giả, các câu kệ trên chính thức được Đức Phật thuyết trong bài Kinh nào? ở đâu?
trong hoàn cảnh nào? và nhân sự kiện gì?
Đại Phạm
Thiên Sahampati cũng nghiêm chỉnh trả lời với vẻ rất tự tin:
_ Bạch
ngài Dhammapāla, cả bài kệ đầy đủ nằm trong kinh Tùy Phiền Não, số 128,
Trung Bộ 3, được Đức Phật tuyên thuyết giữa hội chúng ở Kosambī tại tịnh
xá Ghosita. Chính xác vào lúc “Sau khi đi khất thực ở Kosambī, ăn xong,
trên con đường khi khất thực trở về, sau khi dọn dẹp chỗ nằm, lấy y bát, Ngài đứng
và nói bài kệ”. Nhân sự kiện trước đó ba lần, Ngài đã răn dạy các Tỳ-kheo
ở Kosambī, nhưng họ vẫn “cố chấp, cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh
nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi”!
Thần Hộ
Pháp Dhammapāla hoan hỷ tán thán vị “Kinh Sư” rồi đột nhiên hỏi lớn:
_ Thực tế là
như thế, nhưng tại sao luận sư Bà-la-môn Phật Âm lại chú giải rằng Đức Thế Tôn
dạy các câu kệ trên tại Kỳ Viên Tự, nhân chuyện về trưởng lão Tissa “vốn
dòng hoàng tộc, xuất gia nhập đạo lúc tuổi đã cao niên, nhằm thời kỳ Phật giáo
hưng thịnh, được nhiều lợi lộc, Trưởng lão thọ dụng đầy đủ, thân thể phì mỹ đẫy
đà. Trưởng lão ưa đắp y giặt giũ dằn nếp thật sạch sẽ thẳng thớm, lại thích ngồi
chễm chệ trong phòng nhóm Tăng hội ngay giữa chánh điện”? (1)
Đại Phạm
Thiên Sahampati tiu ngỉu như cờ gặp mưa:
_ Dạ…
việc này phải hỏi lại những ai đã tin tưởng Phật Âm.
Thần Hộ
Pháp Dhammapāla xua tay:
_
Không cần, khi người ta đã tin các luận giải như thánh điển, có hỏi cũng bằng
thừa.
Thần Hộ Pháp
Dhammapāla nói lớn giọng hơn nữa:
_ Thế nhưng
còn điều này mới đáng nói. Cũng theo chú giải của Bà-la-môn Phật Âm, trưởng lão
Tissa thường im lặng khi được các Tỳ-kheo nơi khác cung kính lễ lạy vì họ tưởng
ông ta hạ lớn. Chỉ có “tội” như vậy mà một Tỳ-kheo trẻ, khi biết được, đã dám mắng
chửi vị trưởng lão lớn tuổi hơn mình thế này (nguyên văn): “Này ông sư
già mất dạy, cống cao ngã mạn, không biết tự lượng, ông trông thấy
các Ngài Đại đức trong nhóm đây mà không chào hỏi theo
pháp” (2). Xin hỏi hiền giả, điều này có thích đáng với truyền
thống của Tăng Bảo hòa hợp nhau như “nước hòa với sữa” không?
Vị Tỳ-kheo
trẻ đã không hỏi kĩ trước khi lễ lạy, dù có nhiều tuổi hạ hơn nhưng hỗn
láo, lỗ mãng với người đồng đạo già, liệu có đủ tư cách xứng đáng bắt người
khác phải chào hỏi? Pháp nào dạy như thế? Luật Pātimokkha nào quy định như vậy?
Một hội chúng kính trọng đạo đức và trí tuệ là thế ư? Trong Chánh Kinh có đoạn
nào dạy Tỳ-kheo hồ đồ như thế không? Có phải ngôn phong ấy chỉ có ở một kẻ ác
ngữ, muốn nêu gương xấu cho những kẻ tà tín noi theo?
Nếu tất cả
các Tỳ-kheo trẻ đều bắt chước “ngài đại đức” trong “thánh luận giải” của Phật
Âm Bà-la-môn, thì Tăng đoàn sẽ như thế nào? Liệu có nên tin tưởng một chiều vào
chú-thích-tự-giải với những câu như vậy của một ông Bà-la-môn vốn khét tiếng
trong việc chống các phái ly khai khỏi Bà-la-môn giáo?
Đại Phạm
Thiên Sahampati nghe hỏi liền một hơi liền giật mình choáng váng, chép miệng thở
dài:
_ Thưa Thần Hộ Pháp Dhammapāla! Chư Thiên chúng tôi từ hồi nào đến giờ có thèm đọc
các luận giải ấy đâu. Trước lúc nhập Niết Bàn, Đức Thế Tôn đã di giáo rõ ràng
chỉ có hai tạng Kinh và tạng Luật, chứ có tạng Luận bao giờ.
_ Đã
thế, nhiều người còn xem các luận giải của mấy ông luận sư Bà-la-môn ngang hàng
Thánh Kinh - Thánh Luật nữa chớ! Họ có điên rồ không?
_ Vô
minh đến thế là cùng! Còn ai luận hay hơn Đức Phật, thưa Ngài!
_ Luận
hay bằng móng chân Ngài cũng không có, chứ đừng nói ngang bằng! Các Tỳ-kheo nào giới luật không thanh
tịnh nên tri kiến không thanh tịnh, họ mới không hiểu được chánh Kinh chánh Luật của ĐứcPhật.
_ Cho nên
họ phải dựa vào Luận giải. Và khi mọi người nhắm mắt tin theo đây,
họ sẽ không thể phát hiện được những luận giải khác biệt chết người
của các ông luận sư Bà-la-môn sống sau Phật cả ngàn năm.
_ Đúng vậy. Đương thời Phật, cũng có những
bài kinh do các Thánh Tăng thuyết, nhưng tất cả đều đã được Đức Phật ấn chứng:
“Nếu có hỏi Như Lai, Như Lai cũng nói như thế”.
_ Còn
với các luận giải sau này, mọi người phải thận trọng, chớ có tin bừa. Nhất là của
các luận sư Bà-la-môn ngoại học đời sau.
_ Đã
không hiểu rành Kinh - Luật thì chớ, đàng này lại còn bắt chước kẻ xấu quay lại
coi thường chánh Kinh thánh Luật của Phật mới nguy chứ!
_ Cho
nên địa ngục lúc nào cũng đông hơn cõi người, thưa Thần Hộ Pháp Dhammapāla.
_ Thêm
nữa, hàng ngàn năm
sau khi Phật
đã nhập Niết Bàn, thử hỏi ai là người có đủ tư cách ấn chứng cho các ông luận
sư Bà-la-môn là Thánh tăng, là Bồ-tát?
_
Thưa, chỉ có ba hạng người: một là kẻ lộng ngôn, hai là kẻ lộng hành, ba là kẻ
lộng ý mới dám lộng quyền như thế! Nếu Phật Âm hoặc thầy của ông ta tự xưng,
thì họ đã phạm tội Ba-la-di thứ tư, bị “rơi đầu” từ lâu rồi. Còn nếu dựa vào mớ
chú giải đồ sộ của ông ta, thì trời ơi, Tần Thủy Hoàng với Vạn Lý Trường Thành
còn vĩ đại hơn gấp nhiều lần!
Thần Hộ
Pháp Dhammapāla mạnh giọng:
_ Ấy vậy
mà cả ngàn năm qua dưới dương trần nhiều thế hệ cứ vô tư tin tưởng luận sư
Bà-la-môn Phật Âm sống sau Phật cả ngàn năm là “Thánh tăng”. Đã thế còn hè nhau
tôn thờ cả cái giỏ “Thánh điển chú giải” của ông ta nữa chứ. Thật là tai họa!
Im lặng hồi
lâu, Đại Phạm Thiên Sahampati chắp tay cung kính:
_ Thưa,
nhưng tại sao đến bây giờ Ngài mới lên tiếng?
Thần Hộ Pháp
Dhammapāla trầm tĩnh:
_ Kinh văn
đã dạy: “Biết pháp, biết nghĩa, biết lượng, biết mình, biết thời,
biết chúng, biết người” (3). Cơ duyên bây giờ mới hội đủ! Đã đến
lúc nói những điều cần phải nói!
Đại Phạm
Thiên Sahampati chấp tay hô to:
_ Sadhu!
Lành Thay! Lành thay! Cung thỉnh ngài giá lâm xuống dương trần cất tiếng rống
sư tử! Từ xưa đến nay chư Thiên chúng tôi chỉ ủng hộ những ai biết tin theo
chánh Kinh – chánh Luật mà thôi!
Thần Hộ
Pháp Dhammapāla im
lặng nhận lời, xoay mình biến mất tại cung trời Abhibhù.
Ghi chú
(1) “Chú
giải kinh Pháp Cú tập 1”, tác giả Phật Âm - Buddhaghosa, dịch giả Pháp Minh,
trang 67.
Về
trường hợp Tỳ-khưu Tissa, trong Tương Ưng Bộ, bài kinh Tissa (S.ii,281)
có ghi rõ Tissa là ‘cháu của phụ vương Thế Tôn’. Còn trong (S.iii,106),
ghi Tissa là ‘cháu trai Thế Tôn’. Còn trong Trưởng Lão Tăng Kệ có ba
vị Tissa: Vị Tissa thứ nhất, trong Thera 6, là con bà dì của Đức
Phật, vị Tissa thứ hai (Thera 14) cũng thuộc gia đình vua chúa nhưng
không liên hệ dòng họ với Phật, và vị Tissa thứ ba (Thera 21) có gốc
là Bà-la-môn.
Như vậy trong kinh văn, tôn giả Tissa là vai em hoặc
cháu chứ không phải chú của Thế Tôn như chú giải của Phật Âm
Bà-la-môn. Còn trong Tăng Chi có nói đến vị Tỳ-khưu Tissa sau khi mất
tái sanh lên Thiên giới và làm Phạm Thiên Tissa (AN VI:34 & AN
VII:53). Tất nhiên Phật Âm Bà-la-môn bỏ qua các sự kiện này, nhưng lại
thêm vào những chi tiết bịa đặt vu khống hạ bệ tôn giả Tissa, hoàn
toàn không có trong tất cả các kinh văn gốc nêu trên.
(2) “Chú
giải kinh Pháp Cú tập 1”, tác giả Phật Âm - Buddhaghosa, dịch giả Pháp Minh,
trang 68
(3) Kinh
Thập Thượng, số 34, Trường bộ 2.
Các trích dẫn trong bài viết từ tạng Kinh, theo bản dịch của HT Thích Minh Châu; từ tạng Luật theo bản dịch của TK Nguyệt Thiên.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét