114-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI/ 11
THẾ GIỚI TÌNH
DỤC
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/
http://www.tantraleaks.net/vi/
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/027/
http://www.tantraleaks.net/vi/amnbnh/
114-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI/ 11
THẾ GIỚI TÌNH
DỤC
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/
http://www.tantraleaks.net/vi/
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/027/
http://www.tantraleaks.net/vi/amnbnh/
113-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI/ 10
KÍCH THÍCH
DÂM DỤC .
Tổ sư của Hồng
giáo Tạng Mật đại sĩ Liên Hoa Sinh trong cuốn “Mật tông đại giải thoát pháp”
nói:
(Để tu tập Tứ
lạc quan bế thụ sinh môn – pháp môn tu tập Tứ lạc bế quan tránh thụ thai)
…Về pháp tu
thân thể, phải liên tục trao nhau ánh mắt ái dục tạm thời.
Về âm thanh,
thì phải nói những lời lãng mạn hoặc một số câu đối thoại gợi dục.
…Nói đến xúc
giác, thì phải vuốt ve, mát xa và mút vú. Cần ôm nhau nhẹ nhàng và gãi ngứa
(làm buồn-gây nhột), mát xa chính giữa liên cung (âm đạo). Thoát y và cùng nhau
ngắm nhìn liên (âm hộ) chùy (dương vật) để sinh khởi dục vọng.
Khi “thân
pháp ấn” đã tràn đầy ái dục, tâm ái dục đã bị kích thích (cao độ), khi chùy kim
cương (dương vật) đã chuẩn bị xong thì có thể hiến nhập vào liên cung (âm đạo).
Sau khi di động
xâm nhập lên xuống, “duy trì lấy cảm giác Không”, không thực hiện di chuyển nữa.
Lại nhẹ
nhàng di động, để không bị mất đi kinh nghiệm vừa nói ở trên, “Sơ Lạc (khoái cảm
đầu tiên) bắt đầu sinh khởi và được cảm nhận rõ”. Với cảm giác đó, hoàn toàn
“trụ vững ở trong trạng thái Không Lạc”. Nếu như khoái cảm dường như đang thoái
giảm, thì tiếp tục di động đâm rút mãnh liệt dựa vào kinh nghiệm đã có của
mình, “hỷ lạc lại được tăng cường và cảm nhận được khoái lạc vô thượng”.
Cho nên, vì
“đây là pháp thâm sâu và thành tựu nhanh chóng hơn các Mật pháp khác”, trước mắt
“không cần phải để ý việc người thường nói thế nào”…. “điều quan trọng là làm
thế nào để có thể tìm được một phối ngẫu (đối tượng nữ) trẻ đủ tiêu chuẩn để huấn
luyện pháp môn Đại Lạc này”.
Còn về các
chi tiết thì có thể tìm hiểu trong “Hạ môn Đại Lạc giáo pháp”. Đây là pháp môn
tránh thụ thai trong đạo Ái dục, là phương pháp dự bị của “Nhà tu hành thượng đẳng
đầy đủ may mắn”.
“Lấy đối trị
giới cấm làm pháp môn bế quan thụ thai của đạo Giải thoát”
Đây là nhằm
trân trọng các cư sĩ, sa di và tỳ kheo thề giữ giới, khi họ nhìn thấy nam nữ
giao hoan hoặc tưởng nhớ đến đối tượng ái dục, thì phải tăng cường tu bất tịnh
quán hoặc dũng mãnh vứt bỏ. Trong quá trình Trung Hữu (trung ấm thân), khi họ
nhìn thấy nam nữ giao hợp, họ sẽ tưởng nhớ đến sự rèn luyện và xả bỏ của mình.
Họ vì thế sẽ không tiến vào cửa thai, hoặc là họ sẽ thụ sinh để tiến vào một mẫu
cung (tử cung mẹ) hoàn mỹ và có được sự chuyển thế may mắn tốt lành. “Pháp môn
này có phần kém sắc hơn pháp môn đã thuật ở trên”. Tam muội da….
(Nguồn: “Mật
tông đại giải thoát pháp” trang 276-278).
Mật tông lấy
quỷ thần làm chính
Mật tông từ
đầu đến cuối đều lấy Đệ tứ hỷ dâm lạc của Song thân pháp làm mục tiêu tu chứng
cuối cùng của mình; đều là thể hội dâm lạc không hình sắc mà gọi đó là Không
tính, lại thể nghiệm Tâm giác tri trong cảnh giới Đệ tứ hỷ dâm lạc cũng không
có hình sắc nên cũng gọi đó là Không tính. Giáo pháp của Mật tông sở dĩ có thể
khiến người ta từ đầu đến cuối không lìa khỏi Song thân pháp là vì “Phật Bồ
Tát” mà Mật tông sùng phụng, kỳ thực đều là các loài quỷ thần, cho nên mới thường
đem các vật dâm uế và bất tịnh như ngũ cam lộ, ngũ nhục để cúng dường cho
chúng, thì mới lấy lòng họ được. Khi các hành giả Mật tông Tây Tạng tu pháp,
thường gặp “người nữ do quỷ dạ xoa hóa hiện” đến hợp tu cùng, hoặc gặp một người
con gái cực tham dâm đến hợp tu Song thân pháp. Có lúc thì do quỷ thần như dạ
xoa chiếm thân xác người nữ để đến hợp tu Song thân pháp nhằm hút tinh khí của
anh ta, thế nhưng các “nhà tu hành” Mật tông lại ngộ nhận rằng các “Không Hành
Mẫu” đó chính là Phật Bồ Tát…Ví dụ như các thượng sư Mật tông đợi sau khi Đả Na
Lạp Đạt (Đa La Na Tha) qua đời, họ đã dựa vào kinh nghiệm của bản thân, mạo
danh ngài Đa La Na Tha để viết ra cuốn sách “Đả Na Lạp Đạt mật truyện”, qua đó
để tuyên thị trải nghiệm một đời của vị thượng sư đó rằng: “Năm 34 tuổi sống ở
Tế Phổ Đăng, bệnh đã đỡ, người ta cúng dường, giảng kinh tham đạo (tuyên giảng
‘Mật kinh’ của Song thân pháp). Những ngày khác thì làm việc thiện, trước giờ
ngọ đứng một mình bên song cửa nhìn xa, thấy từ vùng đất Hoa Mã Cơ Xúc Lâu có một
người nữ đến, nhan sắc tuyệt mỹ, nghi là đến làm công quả cho chùa. Tôi bèn thượng
tọa, bỗng dưng đẩy cửa bước vào, một tấm lòng say. Mặt tựa như ngọc, trang phục
đều phối hợp tương xứng, bất kể chỗ nào (của cơ thể) cũng đều khiến người
ta say đắm. Hỏi nàng về chốn ở, họ tên, nàng đáp: ‘thiếp sống ở núi Phổ Đà nhiều
năm, cha mẹ họ gì không nhớ. Thiếp tên là Trúc Cơ, hôm nay đến muốn gặp ngài, đến
mới đến đây’. Ý tôi cho rằng con gái ở núi Tri La vùng La Tát có tha tâm thông,
mỉm cười, khuôn mặt cực đẹp, lòng tham nổi lên không ngừng. Hôn sâu sờ nông, vuốt
vú dò liên (âm hộ), người nữ thở hổn hển, có ý không thể chờ đợi được nữa,
tự nằm ngửa ra, nắm lấy chùy tôi mà đút vào, áo váy xúng xính, liên cung tỏa
hương, thanh hương cùng dậy, sắc tình giao nồng. Nàng run rẩy như vừa rất kinh
sợ, có lẽ là lên đến đỉnh rồi. Tôi lại ra sức tung hoành, bình thường sắc tướng
đều đã tịch diệt, Minh điểm giáng xuống mà trào ra. Lại nâng chiết lên, ảnh tướng
thỏa hát trong hư không hiện khởi.Nàng ấy có mạch đại lạc, tên gọi Ba Chân, đã
vào chùy đạo, như rồng cuốn mà không thể ra, tuy muốn xuất ra một ít mà không
thể xuất được, đại lạc trong đó không phải là thứ mà người đời có thể muốn thấy
được. Kéo dài đến hết thời gian một bữa ăn. Xong việc, uống hết chỗ rượu trong
bình. Trong chớp mắt, nàng ấy đã đi mất, cửa nhà lại như thường, tựa như có thần
biến vậy” (34-622).
Người nữ kiểu
như thế là do quỷ thần biến hiện ra, tuyệt đối không phải là thiên thần, càng
không phải là Phật Bồ Tát nào cả. Thế mà các thày Mật tông tuyệt đại đa số đều
tin tưởng, ngưỡng mộ, rõ ràng không phải là người có trí tuệ gì cả. Vì sao vậy?
Vì chư Phật Bồ Tát đều dạy người ta đoạn dâm, đều khai thị rằng: “Dâm dục là
phiền não thô nặng nhất trong Dục giới ái, người cầu giải thoát trước hết phải
đoạn trừ dâm dục”. Cho nên làm gì có Phật Bồ Tát nào hóa hiện thành người nữ, đến
hành dâm cùng với thượng sư Mật tông.
Còn nếu như
chuyện Bà Tu Mật Đa trong kinh Hoa Nghiêm thì nhất định phải dựa vào pháp tham
này để giúp người ta chứng ngộ Như Lai Tạng, sau khi chứng xong thì xả bỏ tham
dục. Nhưng nay xem lời văn do các thượng sư Mật tông mạo danh Đả Na Lạp Đạt viết
ra thì thấy họ hoàn toàn không biết cũng không chứng được Như Lai Tạng, cũng
không lìa tham, ngược lại càng sinh lòng tưởng nhớ, viết vào trong sách, chứng
tỏ người nữ đến chắc chắn là loài quỷ thần, sao có thể nói đó là Phật Bồ Tát được?
Tuyệt không có cái lý ấy!
Lại nữa, Đa
La Na Tha cả đời bài bác pháp tu song thân, lấy pháp Như Lai Tạng làm mục tiêu
hoằng pháp, sao có thể viết sách mà trước sau đều nói không đúng trọng điểm được?
Hơn nữa, Pháp vương Đa La Na Tha cả đời cực lực phản đối Song thân pháp sao có
thể ra sức tận lực dâm loạn với người nữ, lại còn viết thành sách để lưu truyền
hậu thế, tự mình mâu thuẫn với chính mình được?
Lại nữa,
pháp mà Đa La Na Tha hoằng truyền, nếu như cùng là Song thân pháp giống với
pháp của Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 5, phái Tát Già, Đạt Bố thì đương nhiên Đạt Lai
Lạt Ma đời thứ 5, các phái Tát Già, Đạt Bố sẽ tán đồng ủng hộ, thì đâu cần phải
hợp lực tiêu diệt phái Giác Nãng và trục xuất Đa La Na Tha (ra khỏi đất Tạng)?
Không thể có cái lý đó được! Cho nên, hành vi cấy tang vật vu cáo người khác của
các thày Mật tông từ xưa đến nay, cho đến thân là pháp vương Đạt Lai Lạt Ma mà
sát hại người khác, xảy ra rất nhiều, những người tu hành lâu năm ở Mật tông đa
phần đều biết cả. Mật tông tuy cấy tang vật vu oan cho Đa La Na Tha bằng cuốn
sách “Đả Na Lạp Đạt mật truyện”, tuyệt đại đa số đều sai cả, nhưng thông qua việc
các thượng sư Mật tông giả danh Đa La Na Tha viết cuốn sách này, ngày nay chúng
ta càng có thể biết được rằng giáo pháp của Mật tông rất dâm uế, hoang đường,
sao có thể nói đó là chính pháp của Phật giáo được đây?
Vị Không
Hành Mẫu mà thượng sư Mật tông gặp phải kia, nếu là do quỷ dạ xoa hóa hiện ra,
thì “người nữ” đó nhất định sẽ thích ăn cam lộ (dâm dịch), qua hành vi của họ
cũng có thể thấy được. Ví dụ Mật tông mạo danh Đả La Lạp Đạt nói thế này:
“…Nàng nói: ‘Thiếp ở nhà tranh rách nát, không thể ở được, đêm thiếp sẽ đem mặt
trăng đến (thiếp sẽ hẹn gặp theo ánh trăng sáng), không lỗi (sẽ không lỗi hẹn).
Tôi bèn chăng màn chờ đợi, quả cúng dường đưa đến, cùng nàng hành cúng dường
ở chỗ không người. Làm xong, ai nấy cầm đồ cúng dường, cho vào mồm nhai nát
xong rồi nhè ra, đút vào miệng nhau mà ăn, cơ thể rạo rực cực kỳ tham muốn cái
chuyện ấy, lời nói thì dạt dào toàn những lời dâm dục. Lúc lạc khoái tột độ
cùng lên giường, không cả kịp biết gì đến Chính phần. Tu theo Khởi phần,
Minh điểm chảy liên tục, hòa hợp với Bồ Đề của nàng, liên cung nhớp dính, bèn
đút lưỡi vào trong liên (âm đạo) mà nếm. Nàng cũng biết Minh điểm của
tôi có sức gia trì, bèn ngậm chùy (dương vật) tôi mà mút lấy tinh hoa. Tâm
tham của nàng chưa được thỏa mãn, khi chùy tôi cứng lên, không ỉu xìu, cứ thế
cho đến sáng, hai bên đều mặc sức tham dục không ngừng. Đến sáng, hai người đi
tè và uống nước tiểu của nhau…(trong Chương 9 - Tiết 4 tôi đã
nêu ra chi tiết, ở đây không nhắc lại nữa)”. (34-606~607)
Người nữ như
thế đều là dạ xoa đầu sinh mà đến, cho nên rất thích ăn tinh khí của người,
chính là “Phật Mẫu” mà Mật tông vọng tự tôn sùng đó. Cho nên, cần biết rằng “Phật
Mẫu, Không Hành Mẫu” của Mật tông đều là do dạ xoa hoặc quỷ thần hóa hiện ra,
nhân cơ hội hành dâm với hành giả Mật tông để ăn tinh khí của họ. Hoặc là quỷ
thần hóa hiện, hoặc là chúng sinh tham dâm ở đạo quỷ thần (Ngạ quỷ đạo)
đầu thai ở nhân gian, đều là những kẻ dâm uế, do có duyên hợp mà đến gặp gỡ với
những người như thượng sư hành giả Mật tông, vì thế mà cùng hành dâm với nhau,
qua đó mà ăn tinh dịch và tinh khí của họ mà thôi.
Lại nữa, nếu
Không Hành Mẫu hoặc Dũng Phụ là do ma hóa hiện ra, thì cũng là dựa vào pháp tu
song thân này để khiến cho hành giả Mật tông đắm chìm vào tham đạo, mãi mãi
luân hồi sinh tử, đồng thời ảnh hưởng đến người khác theo họ cùng sinh tử luân
hồi. Việc này Phật đã nói đầy đủ trong “Kinh Lăng Nghiêm” rồi, các hành giả Mật
tông và thượng sư lẽ ra đều biết cả, sao có thể nhìn mà không thấy, nghe mà
không tin theo được? Cho nên mới nói những người tiếp tục chấp trước vào Song
thân pháp, coi đó là Phật pháp thì đều là những kẻ ngu si vô trí cả, không thể
gọi là người có trí tuệ được.
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/
http://www.tantraleaks.net/vi/
HÌNH
MINH HOẠ
112-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI/ 9
TU TẬP THỦ DÂM
Mật tông Tây
Tạng có pháp tu song thân, ngoài ra cũng còn có pháp tu đơn thân. Pháp tu đơn
thân chủ yếu là nói khi trước mắt không có Minh Phi thực thể người thật để tu
hành, thì có thể dùng pháp quán tưởng ý dâm và thủ dâm để đạt mục đích sinh ra
khoái cảm tình dục giống như khi tu Song thân pháp với Minh Phi.
Dưới đây
chúng ta hãy xem Mật tông làm thế nào để lấy ý dâm và thủ dâm để làm pháp môn
trong tu hành thành Phật của mình.
Cuốn “Bí mật
Ma ni Minh điểm kinh” của Mật tông (kinh này không phải do Phật Thích Ca thuyết,
mà là kinh giả do ngoại đạo trà trộn vào trong Phật môn) nói rằng:
Hai tay ôm rốn,
chùy rủ giữa hai mắt cá chân
Người có
tham tâm nơi thân giới khá nhỏ
Đốt tay sinh
khởi năm loại Không Hành Mẫu
Chùy mềm
không cứng day vuốt minh điểm xuống
Như Mễ Lạc
nói là xuống như dáng rùa bò
Lần lượt mạch
xứ nhân biết lấy Tứ trí này
Đến chỗ gốc
chùy thì nâng lên trong từng sát na
Nghi nó rơi
rớt thì dùng thủy thú hầu quyền,
Giữa hai hạ
môn, minh điểm tất đi qua
Như chỗ tháo
nước, phải dùng sức ấn đè
Hậu môn căng
ra, tứ chi co rút mạnh
Hạ khí nâng
lên đến bụng, dựa vào sống lưng
Chỗ hai hạ
môn, dùng sức mà nâng thu
Lưỡi đẩy thượng
ngạc, mắt hướng lên nhìn ngược
Khí ở toàn
thân hoàn toàn đẩy lên trên
“Hồng”, “Hạ”,
“Thẩm” ba âm phải hô dài
Nguồn tâm ở
chốn pháp giới hư không kia
Mật chùy
minh điểm như sóng trào lên cao
Đến giữa rốn
thì sinh hoan hỉ thứ nhất
Tâm nhị, hầu
tam, đỉnh tứ lần lượt hoan hỉ theo
Phải chăng
là từ dưới lên trên hỉ Tứ trí
Lúc đó an
trú vào Không Tính không được rời
Mới có thể
thành tựu Tứ hỉ nghịch hành
Sau đó tâm
khế hợp với hư không kia
Xem thể tính
quảng đại như hư không kia
Dùng quyền
pháp ở trên ra sức mà thực hành
Minh điểm chớ
rơi rớt, như lời thề bảo vệ.
Chú giải
kinh văn như sau:
Ngồi “Tiên
nhân tòa”, tưởng tượng có một mỹ nữ đang ôm lấy mình, hoàn toàn thực hành trong
sự tưởng tượng hư giả. Dùng năm ngón tay đại diện cho “hoa sen – âm đạo”, nắm
chụp lấy “chùy – dương vật”. “Chùy” đút vào “hoa sen”, làm cho sinh ra đại lạc,
thân phát nhiệt. Chùy sinh ra tân dịch (nước tinh), nhưng không được để cho nó
rơi rớt (xuất tinh). Quán tưởng làm tắc đầu chùy. Như vậy là ý đang ở đại lạc,
từ từ thủ dâm. Nếu như lạc xúc sinh khởi muốn tiết ra (xuất tinh), thì lập tức
dùng “đề pháp – phép nâng”, ví dụ như pháp “co rút tứ chi”, “nâng thót hậu
môn”, “mắt nhìn ngược lên trên”, “nâng khí trụ”, “áp hầu kết”, “bụng thót dán
sát lưng”, “nắm chặt”. Sau đó, phát âm “chữ Hồng dài, Hồng ngắn” để xuất khí.
Thực hành “pháp nâng” Kim Cương quyền. Như thế là “Lạc Không hỗ vận”. Như vậy,
lại không hành nữa, lấy hai ngón tay ấn đề vào giữa chỗ đại tiện và tiểu tiện,
tâm trụ vào chữ “Hàng” trên đỉnh đầu, đừng để cho nó xuất ra. Nếu như áp dụng
pháp thủ dâm đơn tu này, tinh tấn mà thực hành, có lạc khoái mà không xuất
tinh, thì sẽ được đại kiên cố (bền bỉ). Không những được đại lạc khoái, mà còn
thành tựu Du Già Sĩ đại lực, tăng trưởng kiên cố, có thể tách bạch tịnh và trọc,
minh điểm cũng sẽ hạ thấp. Cuối cùng tu thành “Tứ hỉ thăng ngược”. (Trích dẫn từ
“Bí mật đại lạc đơn tu”)
Trong cuốn
“Hợi Mẫu thậm thâm dẫn đạo” của mình, Liên Hoa Sinh đã khai thị như sau:
“Người tự
làm Đại lạc luân (Lạt Ma Mật tông nếu như không có Minh Phi người thật cùng tu,
thì tu Đại lạc luân tự thân – tức thủ dâm): Bậc du già sĩ (yoga) có đủ lực, vì
để tăng trưởng trí tuệ Vô lậu, cần tu khí mạch minh điểm, sau khi quán đỉnh như
pháp, thực hành chuyết hỏa, thì ngồi lên đệm an lạc ở một nơi vắng vẻ, tùy theo
dục lạc (dâm ý) mà nghĩ đến một vị Phật mẫu (tức là quán tưởng, tưởng tượng ra
một vị Minh Phi). Đó là để tương hợp với tâm, tu pháp trí tuệ mẫu. Nếu như nó
chân thực rồi (nếu như Minh Phi mà mình tưởng tượng ra đó đã thật sự xuất hiện
trước mắt rồi), nghe lời cô ta nói, làm các động tác như ngắm nhìn dung mạo,
bóp vú, hướng đến hư không mà hành (tức là khi tưởng tượng ra Minh Phi hiện lên
rồi thì còn phải nghe được tiếng cô ta nói, làm các động tác ngắm nhìn hình
dáng, ấn bóp ngực cô ta…, tất cả đều thực hiện kiểu quờ quạng vào một cô gái vô
hình trong hư không ngay trước mắt mình, nhưng tâm thì tưởng tượng ra như thật).
Cứ thế đạt đến Bất định pháp (tức là thực hành như trên, không nhất định áp dụng
mãi một cách làm cố định nào), khiến cho sinh an lạc (làm cho mình sinh ra cảm
xúc dâm lạc). Thân sinh nhiệt, ra mồ hôi, chùy (dương vật) bắt đầu tiết dãi bò
(nước dâm rỉ ra quy đầu), lúc này nên quán sát rằng cái thể tính đó vốn dĩ là
không. Đầu, thân bắt đầu run rẩy, thế là trong sát na nảy ra cái mạn của Phật đầu
ngựa (mã đầu Phật mạn), quán sát chùy (dương vật) của mình thành 5 bộ chùy, chữ
Hồng đầu hướng xuống dưới, bịt vào đầu chùy, lấy tay phải làm Hợi Mẫu mà hành
(tức là lấy tay phải làm thành âm hộ của Minh Phi Hợi Mẫu, dùng cách thủ dâm vuốt
lên xuống mà sinh ra dâm lạc), hiển hiện ngũ luân trên đỉnh đầu Tự tính, cứ tu
như Mật tu ở trước. Tuy có gặp phải phen mệnh nan, minh điểm đừng để tiết lậu
(cho dù gặp phải tình huống nguy nan đến tính mạng, cũng không được để cho tinh
dịch xuất ra).
Cái ý lạc
như thế, cần sinh khởi liên tục, từ từ thủ dâm. Cái Lạc nếu đã sinh khởi rồi
(khoái cảm xuất hiện), thì dùng thượng khí án đè xuống chỗ đó, trung khí làm
cho nổi trống bụng, mắt nhìn lên thể minh không, lắc thân rung mình; Khi cái Lạc
(khoái cảm tình dục) giảm dần, thì lại thủ dâm. Nếu không chịu nổi cơn lạc
khoái đó, (đê mê) tựa như lúc hôn mê, thì thân phải bất động, trung khí trướng
đẩy ra ngoài, thượng khí đè ấn, bối khí nâng lên (khí đẩy ra lưng, như con mèo
cong lưng, thót hậu môn, đưa khi từ dương vật hướng ra sau lưng, nâng về hướng
Đốc mạch), lại xuất khí ra bằng âm Hồng hô dài, hô ngắn, bụng hóp dán sát lưng
(co rút nâng sát ra đằng lưng). Cứ thế thực hành không gián đoạn 3 lần (cứ làm
như trên liên tục 3 lần tạo ra cực khoái tình dục)”. (Theo “Khúc quăng trai
toàn tập (3)”, Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn, Hội Phật giáo Phổ Hiền
Vương Như Lai xuất bản ngày 10.7.1991, trang 529~539)
Như trên đã
dẫn lời khai thị của “đại sư” Liên Hoa Sinh – giáo chủ Mật tông trong cuốn “Hợi
Mẫu thậm thâm dẫn đạo”, qua đó có thể thấy một đời của Liên Hoa Sinh đều là
hành dâm bất đoạn, cho đến việc dạy người cũng đều dùng pháp ý dâm, thủ dâm để
tinh tấn tu hành suốt đời.
Nữ hành giả
Mật tông cũng có thể tự thực hành ý dâm, thủ dâm. Trong khẩu quyết “Kim Cương dẫn
thủy giáo thụ” mà thượng sư Liên Hoa Sinh truyền thụ cho “Không Hành Mẫu” Di Hỷ
Thác Gia có nói nữ hành giả trong Mật tông (còn gọi là Minh Phi, Kim Cương
Không Hành Mẫu, Độ Mẫu, Phật Mẫu, Liên Hoa Sự Nghiệp Nữ…) việc tu pháp tức thân
thành Phật vô thượng du già (vô thượng yoga) có bốn loại: Một là quán tưởng (tưởng
tượng) mà tu; Hai là tự tu trên tay; Ba là dùng vật mềm tự tu (thủ dâm trong âm
đạo); Bốn là hòa hợp (làm tình) với Dũng Sĩ (tức Phật Phụ của Mật tông).
Về pháp tu
dâm ý quán tưởng mà tu của nữ hành giả Mật tông, thượng sư Liên Hoa Sinh có nói
trong “Nữ ấn thụ trì mật tu” nói thế này:
“Mới phát khởi
Bồ Đề tâm, khởi bạch từ chỗ ba căn bản, (sau đó quán tưởng) mình trong một sát
na biến thành Hợi Mẫu, (đồng thời quán tưởng) trong bốn cánh hoa sen của mình
(tức là nói bốn môi lớn nhỏ của âm hộ) xuất hiện chữ A trang nghiêm, giữa tâm
thì có chữ☆(một ký tự chữ Phạn, không chép ra
đây được) thành Phật Bộ Không Hành; trên đỉnh đầu có chữ ☆(chữ Phạn) thành Kim Cương Không Hành; giữa hầu có chữ ☆(chữ Phạn) thành Bảo Sinh Không Hành; giữa rốn có chữ ☆(chữ Phạn); chỗ Mật xứ (bộ phận sinh dục) có chữ ☆(chữ Phạn) thành Sự Nghiệp Không Hành, thân tướng thủ ấn vân
vân, khi mật tu Đại lạc sẽ biết. Ở phía trước mặt cô ta, tưởng tượng ra một Phật
Phụ Mã Đầu Kim Cương (nam hành giả song tu tưởng tượng là Kim Cương đầu ngựa)
khiến cho mình sinh tâm tham (sinh ra dục vọng). Trong tâm có chữ Xá biến thành
Phật Dũng Sĩ, trên đỉnh luân có chữ ☆(chữ
Phạn), hầu luân có chữ ☆(chữ Phạn), tề (rốn) luân có chữ ☆(chữ Phạn), mật luân có chữ ☆(chữ Phạn), mỗi chỗ đều thành bốn bộ Dũng Sĩ, còn lại như mật
tu Đại Lạc (những gì còn lại chưa nói thì tu như đã nói trong mật pháp Đại Lạc
Kim Cương). Từ chùy Kim Cương (hạ thể, tức dương vật) của Dũng Phụ được quán tưởng
(tưởng tượng) ra đó, quán tưởng thành 5 bộ (tưởng tượng thêm ra 5 bộ chùy Kim
Cương), bên trong có vật cúng dường Không Hành Mẫu (bên trong có tinh dịch, gọi
là Bạch Bồ Đề, dùng để cúng dường cho Không Hành Mẫu), làm đầy tất cả các lỗ
chân lông của Phật Phụ Phật Mẫu (là Bản Tôn đã được quán tưởng ra bên trong hạ
thể), sinh khởi Dũng Sĩ Không Hành tạp loại, (xuất hiện) như vừng mở mắt (vừng
nổ hạt).
Về pháp tu
quyến thuộc tu ngoài thân mình và người, thì phía đông có Kim Cương Không Hành
Dũng Sĩ như thường thấy, cho đến phía (nam tây) bắc cũng có. Ở trên bốn cánh
hoa sen (4 môi âm hộ) cũng tu có bốn Không Hành Mẫu, thế là (quán tưởng) nam nữ
giao hợp, có sai lầm thế gian cũng coi như không nhiễm phạm, tiến vào như con
trùng nhu động (quán tưởng cái chùy kim cương – dương vật của Dũng Phụ quán tưởng
ra như con trùng nhu động chui rúc vào, từ đó mà dẫn sinh ra khoái lạc tình dục).
Lại lấy các Không Hành Mẫu sinh ra từ các lỗ chân lông từ trên đỉnh đầu cho đến
trong thân làm trợ duyên, (quán tưởng) các Không Hành Dũng Sĩ đó cũng đều sinh
khởi đại lạc tình dục, ngồi kiết già hoa sen, gót chân đẩy chống vào điểm giữa
cơ quan tiểu, đại tiện (của mình), tay quyền Kim cương đặt ở rốn, quán tưởng
trong hoa sen (âm đạo hạ thể của mình) có chữ Xá màu đỏ hai vòng, chữ ☆(chữ Phạn) làm chữ Mệnh của Không Hành, nhập vào trong chùy
(kim cương của Phật Phụ do quán tưởng ra), cái vật cúng dường (trong chùy hạ thể
của Phật Phụ, Mật tông gọi là Bạch Bồ Đề, tức tinh dịch) trút xuống như mưa (tựa
như) băng phiến. Lấy chữ Xá này (lấy Bạch Bồ Đề trong hạ thể Phật Phụ) móc ra để
cúng dường lên thượng sư trên đỉnh đầu và Không Hành (Dũng Phụ, Dũng Mẫu) năm
nơi (ở ngũ luân đỉnh, hầu, tâm, rốn, mật trong thân). Cuối cùng thì rung lắc
thân mình như con dê, như ngựa lăn mặt đất, an trú ở bản thể. Trung khí chướng
ra, khiến cho nó được kiên cố bền chắc. Khi thân Sơ Bản Tôn như ảnh tương
giáng, như khẩu quyết con rùa (chi tiết xem trong các tiết trước), chú tâm vào
đỉnh luân. Các khí lần lượt giãn chùng, dùng pháp đối trị mãnh lợi mà thực
hành. Đó là ba yếu quyết. Lúc nâng lên thì dùng pháp Hổ âu (hổ nôn), lòng bàn
chân tay áp đất, trong miệng niệm ☆(chữ
Phạn) 9 lần; ở bên trái, phải, giữa, ba lần ba mà hành bằng pháp Hồ xú (cáo thối),
nâng từ bên phải, bên phải hô 3 lần, bên trái và ở giữa cũng vậy. Thân khi nâng
bên trái, giữa, thì quyền ấn ngực (vú), thân hơi nghiêng về bên trái phải trước,
như đầu có con rắn tạo thế. Người quán tưởng, móc chữ Hồng từ trong chùy người
nam ra, hồng bạch minh điểm men theo trung mạch người nữ, cúng dường thượng sư
Không Hành như trên nói. Về pháp an trú Minh điểm, ngồi kiết già, hai tay đặt
lên đầu gối, trung khí trướng bụng ra, mắt nhìn hư không, thân lắc như dê rùng
mình. Hành hai lần, có thể trừ bỏ được tất cả chướng ngại. Cuối cùng, trí khí
an trú bản tịnh, hồi hướng phát nguyện. Lĩnh nạp tứ hỷ, tu không ngừng nghỉ”
(Theo “Khúc quăng trai toàn tập (3)”, Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn,
Hội Phật giáo Phổ Hiền Vương Như Lai xuất bản ngày 10.7.1991, trang 569~570)
Như trên đã
nói, nữ hành giả Mật tông cần phải cùng nam hành giả để dẫn sinh Tứ hỷ (bốn loại
dâm lạc theo thứ bậc), đồng thời phải tu “Lạc Không song vận”, khiến cho mình
thường trú lâu trong cảm nhận bốn loại cực khoái tình dục (Tứ hỷ), rồi quan sát
“Lạc Không bất nhị”. Cứ thế thường trú trong cảm xúc dâm lạc như vậy, khiến cho
khoái lạc tình dục liên tục xuất hiện mà hưởng thụ nó, đồng thời phải có cái
“kiến địa” (nhận thức) rằng “cái dâm lạc này bản tính thanh tịnh, dâm lạc không
có hình tướng, không có màu sắc cho nên là Không tính” tồn tại song song, như thế
mới gọi là “Lạc Không song vận” (vừa hưởng thụ khoái lạc tình dục, vừa quán tưởng
coi như nó là Không tính trong Phật pháp).
Pháp này phải
chăm chỉ tu hành, không được lười biếng, cho đến khi có thể trụ trong dâm lạc
như vậy trong tất cả các thời (mọi lúc), thì tức là đã thành tựu Đại Lạc ở Phật
địa rồi, là đã thành tựu “Báo thân” rồi. Báo thân Phật trong Mật tông đều là
thường trụ trong “Đại Lạc” như thế đó. Phàm tất cả những thứ này đều thuộc về
pháp Ý dâm, không khác gì so với vọng tưởng sinh ra ý dâm của kẻ phàm phu cả,
thì có thể thể gọi là chính tu hành trong Phật pháp được đây?
Về pháp thủ
dâm tự tu trên tay của nữ hành giả Mật tông, Liên Hoa sinh nói: “Về pháp tự tu
trên tay, pháp tu này giống như trên (giống như tu quán tưởng)”. (Theo “Khúc
quăng trai toàn tập (3)”, Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn, Hội Phật
giáo Phổ Hiền Vương Như Lai xuất bản ngày 10.7.1991, trang 570)
Nữ hành giả
Mật tông nếu khi quán tưởng, không sinh khởi được dâm lạc (khoái lạc tình dục),
hoặc xuất hiện dâm lạc rồi mà không thể đạt đến cực khoái tình dục, thì có thể
tu thêm pháp thủ dâm, khiến sinh ra cực khoái mà thường trụ vào đó. Pháp quán
hành trong đó, giống như pháp tu nói ở trên. Chỉ là phải gia hành (tăng cường)
bằng cách thủ dâm, cho nên mới gọi là “tự tu trên tay”.
Ngoài ra, nếu
như pháp thủ dâm trên cũng vẫn không sinh ra được khoái cảm tình dục, thì còn
phải phối hợp với vật mềm để tự tu, tức là nói nếu như pháp thủ dâm vẫn không đạt
được dâm lạc đầy đủ, thì lại có thể dùng pháp gia hành, khiến cho dâm lạc sinh
ra, hoặc làm cho dâm lạc nhanh chóng đạt đến cực khoái tình dục. Liên Hoa Sinh
khai thị như sau:
“Về việc
dùng vật mềm, tức là dùng ống trúc (loại nhỏ) dài 5 tấc, bên trong nhét dương vật
dê (chú thích gốc: loại chưa cắt bỏ tinh hoàn), minh điểm mao lư (tinh dịch con
lừa), minh điểm của người nam vừa tâm ý (tinh dịch của người nam mà mình ngưỡng
mộ trong lòng), (sau khi đút vào ống trúc), thì lấy len cuốn bên ngoài, lấy nắp
nắp lại. Ngoài ra, lại lấy lụa hoặc mảnh áo bọc lại, to nhỏ cỡ như cái chùy (kích
cỡ to nhỏ như dương vật người nam khi cương cứng), lại dùng sáp vàng bôi lên,
khiến nó mềm ra, không làm tổn hại đến hoa sen (bôi sáp lên để nó mềm ra, không
gây tổn hại đến âm đạo của mình khi thực hành). Ngoài ra, lại còn bôi vật bí mật
lên (chú thích gốc: Thày nói không biết. Trần Kiện Dân bình rằng: có lẽ là vật
bôi trong pháp tu của người nam). Rồi phát đại Bồ Đề tâm, quán tưởng ra một
Dũng Sĩ vừa ý (tưởng tượng ra một người nam mà mình cảm thấy yêu thích), thực
hiện các loại tham hành (khi quán tưởng, tay cầm cái dương vật giả đó mà làm
các động tác khiến cho mình cảm thấy khoái lạc), (sau khi) hoa sen (âm hộ) nhuận
nước (rỉ dâm thủy), thì gia trì mật xứ của mình và người ta (gia trì vào hạ thể,
tức cơ quan sinh dục của mình và người nam được quán tưởng ra), khiến cho Phật
Phụ, Phật Mẫu được bình đẳng trú (làm cho Phật Phụ và Phật Mẫu trong hạ thể mà
quán tưởng ra đó quan hệ tình dục với nhau, cùng với mình đồng thời an trú
trong cực khoái tình dục). Thân hơi ngửa ra sau, tay trái ôm lấy phần cẳng chân
trái, tay phải cầm vật mềm (dương vật giả tự làm). Trước hết là phải phơi nắng
nó cho nóng mềm (để cho sáp thấm vào đạo cụ, không gây tổn thương cho âm đạo
mình), thực hiện các loại tham tướng trên dưới trái phải trong liên hoa (làm
các động tác chọc rút trái phải trên dưới trong âm đạo của mình khiến cho sinh
ra khoái lạc tình dục): (vì dâm lạc mà) sinh ra suyễn (thở hổn hển), thân thể
run lên…, thì dùng chùy đút sâu đi chậm, tự mình nảy bật từ dưới lên trên. Khi
an trú trong Đại Lạc (khi cơn cực khoái tình dục đến), các cử động thân dưới đều
dừng lại, chú tâm nhìn lên thượng sư Kim Cương Không Hành ở trên đỉnh đầu, mắt
đảo lật (mắt nhìn lộn hướng vào trong). Khi cơn đại lạc tán giảm đi thì lại thực
hành, đại lạc lên cao thì lại buông lỏng thư giãn. Rồi cúng dường năm Không
Hành trong mạch (nếu như khoái lạc tình dục tán thất suy giảm không mạnh mẽ nữa
thì lại tiếp tục dâm hành, nếu khoái lạc tình dục dâng lên cao thì phải hòa
hoãn lại, từ từ mà hành. Trong cảnh giới như thế, tiếp tục quán tưởng đem khoái
lạc tình dục trong thân mình ra cúng dường các Dũng Sĩ và Phật Mẫu Không Hành
trong ngũ luân ở trong trung mạch của mình). (Theo “Khúc quăng trai toàn tập
(3)”, Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn, Hội Phật giáo Phổ Hiền Vương
Như Lai xuất bản ngày 10.7.1991, trang 570-572)
Đó là những
nội dung mà thượng sư Liên Hoa Sinh nói trong “Mật tục”, nữ hành giả Mật tông
khi tự thủ dâm mà không đạt được khoái lạc tình dục, thì phải hỗ trợ bằng đạo cụ
“dương vật giả” để có thể sản sinh ra dâm lạc Tứ hỷ. Đó là pháp “tự tu tức thân
thành Phật” mà nữ hành giả Mật tông thực hành mà không cần dựa vào nam hành giả
(người thật).
Pháp thế tục
có nói rằng: “vạn ác dâm làm đầu”. Dâm dục là nghiệp ác cực sâu nặng của chúng
sinh nơi Dục giới, thậm chí đến mức lấy đó làm bản năng và hưởng lạc của sinh mệnh,
suốt đời tham luyến không rời. Người bình thường nếu chỉ cần có chút lơ là, là
có thể bị rơi vào vòng xoáy đó, ngộ phạm tà dâm mà thân bại danh liệt. Cho nên,
trong pháp thế gian vẫn thường hay khuyên người ta nên đoan trang chính tâm, cẩn
thận trong lời nói và việc làm, để tránh khi không cầm được mà chịu quả báo khổ
đau oan uổng. Trong Phật pháp cũng biết rõ “dục căn” khó đoạn (muốn đoạn phải
có định lực của Sơ thiền, hoặc tu chứng của bậc Tam quả), vì thế mới đặt ra giới
luật, để cho đệ tử Phật lấy giới nhiếp tâm, không phạm thân khẩu tà hành mà
liên lụy đến mình và người, hoặc gây chướng ngại đến tiến tu trong đạo Giải
thoát, Bồ Tát hành, đại bi tâm…Nếu như thế tục pháp và Phật pháp đều thống nhất
tuyên thuyết về sự hưởng lạc và sai lầm của “dục lạc”, từ đó mà khuyên răn mỗi
người đều nên chủ động tiết chế, tránh xa, rời bỏ, mà e còn không làm nổi; ấy
thế mà Mật tông lại biết rõ vẫn làm, vọng tưởng “lấy dục ngăn dục”, dùng các
nghi quỹ phức tạp, lý luận hoang đường, đem “song thân pháp” ra làm cực lạc
hóa, thần thánh hóa, tôn sùng trở thành vô thượng yoga, tức thân thành Phật,
còn nói cái thứ “tà dâm” làm ngược đó thành có lý, nói “loạn luân” không có tội.
Rất nhiều nam nữ vô trí tuệ, hoặc vì tham dâm dục mà bị chúng dụ dỗ, hoặc tham
mê quả vị mà bị rơi vào cạm bẫy của họ, lăn vào tà hành của ngoại đạo, để sau
này hối hận cũng không kịp. Thật đúng là đáng thương.
Phật Thế Tôn
nói rằng: “Các vị Như Lai không sinh ra từ dục”. Nếu như dựa vào Phật giáo
chính thống mà kiểm tra, thì có thể thấy “song thân pháp” từ gốc rễ không những
đã trái ngược với luân lý thế gian, mà còn trái ngược cả với giới luật lớn nhỏ,
thậm chí trở thành cái cớ của các hành giả tham dâm. Chính vì thế mà tổ sư Mật
tông lại nhập nhèm lẫn lộn, bày đặt ra cái gọi là “Giới Tam muội da”, một mặt vừa
quy phạm, đặt ra các điều kiện tu tập “song thân pháp” cho hành giả, mặt khác
cũng nêu ra các lý do không phạm giới cho song thân pháp. Thậm chí ngay cả khi
không có Minh Phi để dùng, lúc đơn tu (tu một mình) có thể dùng ý dâm, thủ dâm
để thay thế cho song thân pháp. Thế nhưng, phương hướng và mục tiêu của họ đều
đã sai rồi, thì trong quá trình thực hành, dù có đổi trắng thay đen thế nào,
thì cũng vẫn là dẫn dắt sai lầm, thậm chí là dã tràng xe cát, còn tự chịu hại nữa.
Nếu như đem “Ngũ giới” mà tín đồ Phật giáo đều rất quen thuộc ra để đối chiếu,
thì có thể thấy rõ Mật tông Tây tạng bất luận là đơn thân pháp hay song thân
pháp, cũng đều vi phạm nghiêm trọng tội tà dâm, cũng chính là hành dâm “phi
nhân, phi thời, phi xứ”. Điều này trong Hiển giáo có thể nói là hành vi súc vật,
mang tội địa ngục. Thế nhưng, Tạng Mật vì luôn muốn bảo vệ, duy trì thứ dâm
hành này, nên đã bày đặt ra các ngôn từ bóng bẩy làm trang sức che đậy. Việc
hành dâm không chọn “giờ, địa điểm, người” mà không có kỵ húy gì cả như vậy, ở
trong Tạng Mật lại được xưng tụng là tu hành “tinh tấn”, còn có “đại công đức”,
có thể nhanh chóng thành Phật. Thật không hiểu đó là liều lĩnh cuồng vọng hay
là đại quyền biến thông nữa.
Ở đây, xin hỏi
trước các vị thiện nữ học Phật, cái sự thực nói trên có phải là thứ mà các vị
nguyện làm không? Nếu như đem hiến cả thân thể mình mà không có công đức, công
lao gì, thậm chí còn nối giáo cho giặc, thì phải làm sao? Nữ giới trên xã hội
trong thế giới văn minh này đều được đối xử bình đẳng, cũng còn có sự tôn
nghiêm độc lập, lẽ nào sau khi bước vào cửa Mật giáo, lại trở thành vật hy sinh
cho sự dâm dục của nam giới? Học Phật mà là như vậy ư? Lại nữa, này các vị thiện
nam, các vị có thực sự tin rằng “dâm dục” là đạo nhanh chóng thành Phật không?
Các vị có muốn mạo hiểm nếm thử thứ giáo môn cho hành dâm với mẹ, chị, vợ, con
gái người ta, đồng thời cũng phải dâng hiến mẹ, chị, vợ, con gái của các vị cho
người ta hành dâm không? Các vị có gánh chịu được hậu quả của nó không? Không
chỉ đời này mất đi vợ con lại tổn phúc, mà đời sau còn có thể trở thành quyến
thuộc của ma nữa đó!
Từ khóa: Mật
tông Tây Tạng, Song thân pháp, Minh Phi, thủ dâm, Lạt Ma, Hợi Mẫu thậm thâm dẫn
đạo, Liên Hoa Sinh, Bồ Đề tâm, Không Hành Mẫu, Mật tục
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/
http://www.tantraleaks.net/vi/
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/027/
http://www.tantraleaks.net/vi/amnbnh/
HÌNH
MINH HỌA
111-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI/ 8
THẦN LINH
DÂM DỤC
Mật tông thường
có thuyết Ngũ phương Phật, thế nhưng Ngũ phương Phật này là vọng tưởng. Cũng
còn có thuyết Ngũ tạng là Ngũ Phật: “Mặt người là biểu hiện của Ngũ tạng, bên
trong hư hoại thì bên ngoài hiển lộ ra, cho nên có thể tự biết được. Ngũ tạng
này tức là Ngũ Phật, Ngũ Phật rời đi thì Ngũ tạng hư hoại, cho nên người tu
pháp thường nên quan sát mặt mình xem có biến động gì không. Nếu như có biến động
thì phải hiểu rằng thọ mệnh mình đã tận, vì thế phải nhanh chóng mà tu pháp. Đợi
khi dương diệm khói xanh …bên trong đến thì hành phao-oát (Thiên thức). Cho nên
người tu pháp buộc phải biết pháp phao-oát, nếu không là không được”
(62-320~321).
Thuyết này
chỉ là vọng tưởng. Nếu như Ngũ tạng mà là Ngũ Phật, thì rất nhiều hữu tình cùng
sống ở trên địa cầu này, trên địa cầu đồng thời có vô lượng vô biên Ngũ phương
Phật, tức là trong cùng một sắc thân có tới năm vị Phật cùng ở một thân. Như thế
thì rốt cuộc liệu có A Di Đà Phật ở thế giới Tây phương Cực Lạc hay
không?
Rốt cuộc liệu
có Dược Sư Phật ở thế giới Đông phương Lưu Ly hay không?
Cho đến liệu
có rất nhiều vị Phật hiện tại ở các thế giới khác hay không?
Nếu như có,
thì sẽ mâu thuẫn với thuyết này. Nếu như không có thì tức là trái với lời Phật
thuyết. Tiến thoái đều không có chỗ dựa, thì sẽ thành lời lẽ hư vọng. Cho nên mới
nói thuyết “Ngũ tạng là Ngũ Phật” của Mật tông chỉ là lời lẽ của kẻ vọng tưởng
mà thôi.
Những nội
dung nói trong “Tây Tạng độ vong kinh” cũng hoang đường vô cùng tận. Trong
“kinh” này nói: Ngũ phương đều có Ngũ Phật, từng ngày đến thị hiện trước mắt
người chết để tiếp dẫn họ đi, bất kể người chết khi còn sống có từng phát nguyện
vãng sinh đến thế giới của họ hay không, cũng bất luận lời nguyện của người chết
có tương ứng với biệt nguyện của các vị Phật đó hay không, họ đều tiếp dẫn hết
cả, không có khác biệt gì.
Lại nữa, chư
“Phật” trong “Tây Tạng độ vong kinh” ước hẹn trước với nhau: OM MANI
PADME HUM dịch là ngọc sáng trong hoa sen. Ngọc rất cứng dương vật
cương cứng. Hoa sen là âm đạo. Dương vật trong âm đạo là ngọc sáng
trong hoa sen.
Khi có người
chết ở thế giới Ta Bà thì :
Ngày thứ
nhất sau khi chết sẽ
do “Phật Tỳ Lô Giá Na ôm Phật Mẫu hành dâm (Trần truồng làm tình.), nhị
căn (dương vật và âm đạo.) giao cấu (dương vật trong âm đạo.) Thụ lạc: hưởng thụ cảm giác khoái lạc dâm dục sướng quíu, xuất
tinh khí cam lồ tuôn chảy đến tiếp dẫn hành giả Mật tông.
Ngày thứ
hai sau khi chết sẽ
do “Kim Cương Tát Đỏa A Súc Thế Tôn ôm Mã Ma Cơ Phật Mẫu hành dâm (Trần
truồng làm tình.), nhị căn (dương vật và âm đạo.) giao cấu (dương vật trong
âm đạo.) Thụ lạc: hưởng thụ cảm giác khoái lạc dâm dục sướng
quíu, xuất tinh khí cam lồ tuôn chảy đến tiếp dẫn hành giả Mật
tông.
Ngày thứ
ba sau khi chết sẽ
do “Bảo Sinh Như Lai ôm Phật Nhãn Phật Mẫu hành dâm (Trần truồng làm
tình.), nhị căn (dương vật và âm đạo.) giao cấu (dương vật trong âm đạo.)
Thụ lạc: hưởng thụ cảm giác khoái lạc dâm dục sướng
quíu, xuất tinh khí cam lồ tuôn chảy đến tiếp dẫn hành giả Mật
tông.
Ngày
thứ tư sau khi chết sẽ do “A Di Đà Phật ôm Bạch Y Phật Mẫu hành
dâm (Trần truồng làm tình.), nhị căn (dương vật và âm đạo.) giao cấu (dương
vật trong âm đạo.) Thụ lạc: hưởng thụ cảm giác khoái lạc
dâm dục sướng quíu, xuất tinh khí cam lồ tuôn chảy đến tiếp dẫn
hành giả Mật tông.
Ngày thứ
năm sau khi chết sẽ
do “Bất Không Thành Tựu Như Lai ôm Trinh Tín Độ Phật Mẫu hành dâm (Trần
truồng làm tình.), nhị căn (dương vật và âm đạo.) giao cấu (dương vật trong
âm đạo.) Thụ lạc: hưởng thụ cảm giác khoái lạc dâm dục sướng
quíu, xuất tinh khí cam lồ tuôn chảy đến tiếp dẫn hành giả Mật
tông.
Ngày thứ
sáo sau khi chết sẽ
do “Phật Phụ Phật Mẫu song thân hành dâm (Trần truồng làm tình.), nhị căn
(dương vật và âm đạo.) giao cấu (dương vật trong âm đạo.) Thụ lạc:
hưởng thụ cảm giác khoái lạc dâm dục sướng quíu, xuất tinh khí cam
lồ tuôn chảy đến tiếp dẫn hành giả Mật tông.
Ngày thứ
bảy sau khi chết sẽ
có tượng Trì Minh “Thánh Tôn” của các bộ, đều ôm Không hành “Thiên mẫu” hành
dâm (Trần truồng làm tình.), nhị căn (dương vật và âm đạo.) giao cấu (dương
vật trong âm đạo.) Thụ lạc: hưởng thụ cảm giác khoái lạc dâm dục
sướng quíu, xuất tinh khí cam lồ tuôn chảy đến tiếp dẫn hành giả Mật
tông.
Việc Ngũ
phương Phật cùng nhau ước định số ngày đến tiếp dẫn người chết ở thế giới Ta Bà
như thế thật đúng là những lời lẽ dị thường quái đản.
Hư không mười
phương có vô lượng vô số Phật, thì tại sao lại chỉ có Ngũ Phật này đại diện
cho Ngũ tạng thân người vậy? Tại sao lại chỉ là năm vị Phật này từng ngày đến
tiếp dẫn hành giả Mật tông vậy?
Còn các vị
Phật khác vì sao lại không chấp nhận? Hay là Mật tông cho rằng trong hư không
vô cùng tận mười phương chỉ có năm vị Phật này thôi? Có căn cứ nào nói rằng Ngũ
Phật này từng có ước định như vậy không?
Có căn cứ
nào nói rằng Ngũ tạng trong thân đại diện cho Ngũ Phật không? Dựa vào đạo lý
nào mà nói Ngũ tạng trong thân có thể hiển hiện ra Ngũ Phật đến tiếp dẫn chúng
sinh vậy? Nếu giả như đúng vậy, thì cũng chẳng cần chư Phật đến thị hiện ở nhân
gian làm gì, chỉ cần có Ngũ Phật trong Ngũ tạng phát tâm đại từ bi trong Trung
âm giới, dùng âm thanh hiền từ để thuyết diệu pháp cho người chết, rồi tiếp dẫn
họ đến Tịnh độ của Phật là được rồi, cũng đâu cần từng vị Phật từng ngày đến
lao động không ngừng nghỉ như vậy?
Còn có rất
nhiều thứ sai lầm lớn khác, không cần phải nói ra từng cái một, hành giả tự suy
nghĩ là biết rồi. Cho nên, thuyết Ngũ Phật do Mật tông bày đặt ra, nó hoang đường
tà trái, thuần túy chỉ là pháp vọng tưởng do suy tưởng mà thành, vì sao người
có trí lại tin theo, lại còn nói phải tu theo vậy?
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/
http://www.tantraleaks.net/vi/
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/027/
http://www.tantraleaks.net/vi/amnbnh/
110-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI/ 7
TÀ DÂM CHÚ .
Đây là câu
chuyện xảy ra vào mùa đông năm 2002
Chỗ
chúng tôi có một cư sĩ, cô ấy là cư sĩ học Phật khá sớm ở đây, còn là người thụ
Bồ Tát giới tại gia (6 giới nặng 28 giới nhẹ) đầu tiên ở đây của chúng tôi, các
cư sĩ khác đều rất kính trọng và khâm phục cô ấy. Nói về sự tu hành của cô ấy,
các cư sĩ không ai không giơ ngón tay cái lên tán thán, cũng đều rất nghe lời
cô ấy.
Những
vấn đề không hiểu mà đến hỏi cô ấy, về cơ bản là đều được cô ấy giải quyết.
Bởi vì
những người khác đa số có thời gian học Phật ít, hoặc không có văn hóa (trình độ
học vấn), đọc không quá mấy quyển sách Phật, mà khi ấy sách kinh Phật cũng khá
thiếu thốn. Cô ấy cũng là người mà tôi sùng kính, từ tận đáy lòng, tôi coi cô ấy
là thiện tri thức và là tấm gương mẫu mực.
Năm
2002, cô ấy học Mật, quy y Thượng sư Vạn Hạnh và nhiều lần đến chỗ Thượng sư Vạn
Hạnh tu hành, tôi rất ngưỡng mộ cô ấy. Khi đó, tôi không biết Mật tông là Lạt
Ma giáo, cũng không biết gì về pháp nam nữ song tu của Mật tông, cho rằng Mật
tông là Phật giáo chính thống.
Vị cư
sĩ này tặng tôi sách và đĩa CD của Thượng sư Vạn Hạnh, để tôi xem đĩa CD học tập
một số động tác và trì tụng “Lục tự đại minh chú – Om mani padme hum”. Tôi đọc
sách, niệm chú, tập các động tác, xem CD rất tinh tấn. Ba ngày sau, tôi mơ thấy
một số người đàn ông năm to ba thô , đen như hắc tinh tinh, cơ thể họ to béo
hơn hình thể người chúng ta nhiều, hình dáng đầu trâu quái dị, lộ ra âm khí
(nam căn, tức dương vật) rất to lớn, họ muốn quan hệ tình dục với tôi. Khi hành
tà dâm trong mơ, cái hình tượng đó giống hệt như những hình tượng mà Mật tông
Tây Tạng hiện nay đang cúng tế. Người tôi bị đè thở không ra hơi. Trong mơ, tôi
đã biết là giấc mơ không hay ho gì, bị dọa đến mức vội giãy giụa và niệm Phật
hiệu…Phải qua mấy phen giãy giụa mới tỉnh dậy được. Việc này kéo dài liền mấy
ngày, ngày nào cũng là giấc mơ như thế.
Những kẻ đó
không phải ngày nào cũng là cùng một người.
Tôi
nghĩ rằng: Khi tôi chưa học Phật, thì cũng có lúc mơ thấy ác mộng, hoặc bị bóng
đè. Mấy năm rồi không mơ thấy ác mộng nữa, đêm mơ thanh tịnh an lành rồi. Đôi
khi cũng mơ thấy cảnh làm tình. Từ lúc rất nhỏ, mẹ tôi đã nói với tôi rằng: “Nếu
như mơ nằm ngủ với người khác giới như thế thì không phải là mộng đẹp, đều là
do yêu tà quỷ quái đến hại người đó, con không được giấu diếm không nói. Con cứ
chửi nó, nhổ nước bọt vào nó. Sáng hôm sau tỉnh dậy phải nói với mọi người. Nếu
như ngại nói với mọi người thì gặp gà nói với gà, thấy chó nói với chó, đi toa
lét thì nói với toa lét.
Nếu
như không nói, để lâu ngày sẽ bị thứ yêu quỷ đó hút hết tinh khí, hơn nữa còn
đem bắt con đi, thần kinh con sẽ trở nên bất bình thường mà chết”. Mẹ tôi còn kể
về cô con gái của một nhà nọ ở thôn nọ, hoặc cậu con trai nhà ấy làng kia, đã bị
chết như thế đó, nói rằng thời gian để lâu quá, thì bọn yêu quỷ này sẽ khó mà
đuổi đi được.
Tôi
không còn nằm mơ thấy ác mộng nhiều năm rồi, đặc biệt là đến cả giấc mơ thấy ăn
thịt cũng không còn nữa, huống hồ là cái loại mộng mị bẩn thỉu này?
Nếu
như nằm mơ thấy ăn thịt, thì sẽ cảm thấy không thanh tịnh, thì phải kiểm tra lại
xem rốt cuộc là mình đã làm chuyện không tốt phạm giới gì rồi? Phải đi tìm hiểu
nguyên nhân, rồi phải sám hối.
Lần
này, tôi cũng đi kiểm tra xem nguyên nhân của giấc mơ này là ở đâu, thì thấy chẳng
có chuyện gì khác, cho nên nhất định là chỉ có liên quan đến việc xem đĩa CD, tập
các động tác và niệm “Lục tự đại minh chú” đó rồi.
Dựa
vào đây là có thể thấy rõ pháp này là pháp bất tịnh, là pháp bất thiện rồi. Thế
là tôi ngừng ngay kiểu tu luyện này, rồi đem đốt luôn cả sách và đĩa CD của Vạn
Hạnh. Sau đó thì quay về với niệm Phật, đọc kinh, bái Phật, trì giới như trước.
Sau khi ngừng niệm chú và tu tập các động tác đó, thì thấy không còn xuất hiện
những giấc mơ như thế nữa.
Qua sự
việc này, tôi đã hiểu rõ đó là pháp bất tịnh, là tà pháp, (họ) tu luyện những
thứ mà ngay cả người bình thường cũng không biết, cho nên phải kiên quyết tránh
xa.
Qua sự trải
nghiệm đó, có thể thấy cái “Lục tự đại minh chú” này không phải là chú hay ho
gì, không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một đại dâm chú, là thứ tà dâm chú chiêu gọi
yêu ma quỷ quái đến. Ngày nay trên mạng xã hội nhìn thấy pháp tu song thân của
Mật tông Tây Tạng và tượng Phật mà họ cúng bái, thấy hoàn toàn giống hệt như thấy
trong giấc mơ của tôi năm nào.
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/
http://www.tantraleaks.net/vi/
http://www.tantraleaks.net/vi/
http://www.tantraleaks.net/vi/lmxsj/027/
http://www.tantraleaks.net/vi/amnbnh/
109-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI/ 6
PHỤ LỤC
http://www.tantraleaks.net/vi/amnbnh/
Về chuyện
Thân Mật “Thủ ấn” phối hợp với lục tự đại minh chú, dường như có những
cách nói khác nhau:
Thời
kỳ đầu, ở Tây Tạng chỉ truyền pháp tu trì âm đọc lục tự chứ không khinh truyền
thủ ấn (quyết). Những năm 40, đệ tử nhập thất của pháp sư Đại Ngu – cư sĩ Vương
Tương Lục đã từng truyền tính tu pháp (hợp nhất) câu chú này với thủ ấn Đại
liên hoa tại Thượng Hải. Những năm 60, lại có Viện giám nhiệm kỳ đầu của Hội chữ
Vạn (卍) đỏ - bác sĩ Trương Bội Hưng truyền
thụ phương pháp chuyên tu lục tự chân ngôn kết hợp thủ ấn (quyết) tại Đài Bắc…
Lục tự đại
minh chú vốn lấy Quán Thế Âm Bồ Tát làm bản tôn. Cho nên khi thượng tọa,
phải kết ấn Tam muội da của Liên Hoa bộ. Úp hai bàn tay khum lại (rỗng
lòng), lấy đầu 2 ngón tay cái và 2 ngón tay út chạm khép vào nhau, 6 ngón còn lại
ở giữa từ từ tách ra, hình giống như bông hoa sen đang nở. Ngoài ra, Đạo giáo
khi tu luyện lục tự đại minh chú, kết pháp thủ ấn của nam nữ khác nhau. Nếu là
nam giới thì đầu ngón tay giữa của bàn tay trái và đầu ngón tay cái chạm nhau,
các ngón còn lại duỗi thẳng, đầu ngón trỏ của bàn tay phải và đầu ngón cái chạm
nhau, các ngón còn lại duỗi thẳng. Nếu là nữ giới thì làm ngược lại. Cách thủ ấn
này tuy không phải do Mật tông truyền lại nhưng cũng đủ thấy lục tự đại minh
chú đã thâm nhập vào lòng người, vượt qua cả mọi tông phái.
Bất luận là
liên hoa ấn của Mật giáo hay khuất chỉ ấn (cong ngón tay) của Đạo giáo, dường
như đều có mang một ý nghĩa tượng trưng khác. Theo sự tiết lộ Mật ý ở trên, thì
chắc chắn có hàm ý tương ứng với “Thân, Ngữ”, thà rằng giữ thái độ nghi ngờ còn
hơn là nhẹ dạ tin theo.
Từ
“Thân Mật” của lục tự chú này, tiện thể nhắc nhở đại chúng một vấn đề quen
mà không biết: tư thế tay khi hỏi thăm của Mật giáo. Đây cũng là ví dụ về việc
Tạng Mật “ta bịp ngươi”:
Thông
thường cụp (gập) 3 ngón tay bên trái, phải nói là để chào hỏi, quả thực nói vậy
không thông. Bởi vì thủ ấn này có 2 loại biến hóa, hình dạng thủ ấn khi mở ra
thì như âm vật, khi khép co lại thì tựa như dương vật. Nghi là tựa như thủ ấn của
Mật giáo Thản Đặc La của Thiên Trúc khi hỏi người khác giới rằng liệu có muốn hợp
tu song thân pháp hay không? Sau này được Hiển giáo dùng làm thủ ấn đại diện
cho việc chào hỏi thân tâm khinh lợi hay không, nay đã mất đi cách dùng này,
nhưng bản chất của nó vẫn thuộc về ấn ký (thủ ấn) song thân pháp (nam nữ song
tu).
Thủ ấn
kiểu “song thủ hợp thập” (tức Liên hoa hợp chưởng) của Lạt Ma giáo, lòng
bàn tay không áp dính vào nhau, cũng trông tựa như âm vật, hoàn toàn khác
so với tông phái bên Hiển giáo. Còn động tác chào hỏi của Lạt Ma giáo nghe
nói là “ấn Tỳ Lô Giá Na”, ấn Đại
nhật Như Lai Kim Cương Trí Quyền (như hình dưới) trong “Đại Nhật
kinh” chính là hình dạng giao hợp của 2 cơ quan sinh dục nam nữ. Phần lớn
giáo đồ Phật giáo bị cái tư thế tay này gây ngộ nhận quá lâu rồi. Chào hỏi người
khác bằng thủ ấn này cũng có nghĩa là nói: “chúng ta đến làm tình song tu đi!”.
Quả thật là đáng sợ!
Một đệ
tử Phật giáo chính tín nếu không hiểu nguồn cơn bên trong mà gặp người khác lại
chào hỏi bằng thủ ấn này thì có khác gì một loại xâm hại tình dục Tam mật, thậm
chí đến mức làm nhục nhân cách? Phật giáo Đại thừa trong suốt một thời gian dài
đã bị Lạt Ma giáo làm vấy bẩn, ô nhiễm quá nghiêm trọng rồi. Các thiện nam tín
nữ chỉ một chút lơ là không chú ý là bị họ làm trò bịp, gây tổn hại, trở thành
vật cúng tế hoặc nhân viên tiếp thị của tà dâm pháp Tạng Mật. Thiết mong tất cả
các Phật tử chính tín nên thận trọng tra xét và suy nghĩ kỹ càng: cái gọi là
“Phật giáo Tạng truyền” liệu có phải là chính pháp mà Thích Ca Thế Tôn
truyền lại hay không? Hay nó là tà pháp của ngoại đạo đội lốt Phật? Cái “lục tự
đại minh chú” này liệu có phải là vô lượng công đức như họ tuyên truyền
hay không? Hay là thuốc độc dẫn người ta vào hố lửa? Vì lợi ích và huệ mệnh trường
kiếp của mình và của người khác, xin hãy khảo sát cho kỹ, suy nghĩ cho thấu đáo
rồi hãy lựa chọn. A Di Đà Phật!
Thủ ấn chào
hỏi đang thịnh hành trong giới Phật giáo ngày nay kỳ thực là thủ ấn trưng cầu ý
kiến (hỏi) người khác giới học Mật có muốn hợp tu song thân pháp hay không.
Đại Nhật Như
Lai của Mật tông là Phật giả dạy người ta song thân pháp, cầu dâm lạc, không phải
là Phật Tỳ Lô Giá Na của Phật giáo chính thống.
Thủ ấn
Đại Nhật Như Lai của Mật tông chính là đại diện cho song thân pháp. Miệng thì
niệm lục tự đại dâm chú, tay kết ấn song thân pháp, đó chính là tâm tưởng và
phép tu của Phật giáo Tạng truyền Lạt Ma.
|
Mục đích
trì tụng lục tự đại dâm chú chính là muốn nữ đệ tử cùng với Lạt Ma tu “song
thân pháp nam nữ hòa hợp” như trong hình. |
|
Tác giả: Giáo
sư Chính Huyền
Xuất bản: Hội
đồng tu Chính Giác Phật giáo
Địa chỉ: Tầng
9 số 277 đoạn 3 đường Thừa Đức thành phố Đài Bắc (103)
Điện thoại: 0225957295
(máy lẻ 10-21) – liên hệ buổi tối.
Fax:0225954493
In lần
1:01/7/2011 – 2 vạn cuốn.
In lần 12:08/2013– 2 vạn cuốn.
Xem
“Quan hệ giữa lục tự đại minh chú và Mật tông”, xuất bản 31.3.2009 trên
Trích
lục từ “Duy Ma Cật kinh giảng ký” trang 242 của Đạo sư Bình Thực, nhà xuất bản
Chính Trí.
Pháp sư Đạo Trí trong cuốn “Học tập nghi quỹ” viết: “Sau khi chào hỏi xong thì thế nào? Sẽ kết một cái thủ ấn…gọi là ấn Tỳ Lô Giá Na, tay phải ôm lấy tay trái, ngón trỏ chạm với ngón trỏ, ngón trỏ bên phải hơi nhô ra so với ngón trỏ trái, hơi cong một chút, không phải là 2 ngón trỏ hợp thành hình dạng nhọn.”
Sau khi vấn lễ xong, nghiêm cẩn hơn nữa là hợp chưởng trước ngực (chắp tay hình chữ thập), hơi cúi người, khi hai tay hợp chưởng thuận đà hướng xuống đất, lập tức đan xen ngón giữa, nhẫn, út của tay phải với ngón giữa, nhẫn, út của tay trái, hai đầu ngón trỏ kết với nhau thành hình bán nguyệt, không được tạo thành hình nhọn. Hai ngón cái cũng kết hợp với nhau, rồi đứng thẳng người lên, lúc này đưa tay ấn lên trên cho đến giữa hai hàng lông mày, thủ ấn lúc này gọi là “ấn Tỳ Lô Giá Na”. Khi làm thủ ấn này, Phật tính mà chúng ta vốn có trong 1 sát na sẽ kết nối với pháp thân của Phật, tức là lấy tâm ấn tâm, Phật sẽ hội ý với tâm chúng ta, về lý là đại lễ tối cao trong chào hỏi.
I. TIẾT LỘ BÍ MẬT CỦA LỤC TỰ ĐẠI MINH
CHÚ
II. NHẬN BIẾT THẬT GIẢ CỦA KINH “PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA TRANG
NGHIÊM BẢO VƯƠNG”
108-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI/ 5
III. LỜI KẾT
http://www.tantraleaks.net/vi/amnbnh/
Đọc lại lịch sử Mật giáo Tây Tạng, chúng ta có thể phát hiện thấy, từ tạp Mật cho đến thuần Mật, rồi đến Vô thượng Yoga,
là quá trình từng bước loại bỏ Phật giáo chính thống (Hiển giáo) chuyển dần sang
“phái Tính Lực” quỷ thần của Ấn Độ, cuối cùng là bị Mật giáo hóa hoàn toàn. Trong quá trình đó còn pha tạp một phần lớn tín ngưỡng và nghi lễ của Bôn giáo (cúng tế, nhảy thần, bói toán, giải hạn). Bắt đầu từ truyền thuyết La Thoát Thoát Nhật Niên Tán “thiên giáng thần vật”, trải qua quá trình thu nhận Phật pháp (chủ yếu là Mật pháp của Phật giáo) của Tùng Tán Can Bố, những vật phẩm Phật giáo mà công chúa Xích Tôn của Nepal (tuyên xưng là hóa thân của Phẫn Nộ Độ Mẫu) và công chúa Văn Thành của Đại Đường đem đến là hoàn toàn khác nhau. Cuối cùng, Xích Tùng Đức Tán trước sau có nghênh thỉnh Tịch Hộ và Liên Hoa Sinh vào Tây Tạng.
Hai người này, một là kẻ phàm phu theo Lục thức luận của Trung Quán phái Tự tục, một người là
Ma pháp sư của Mật giáo. Muộn hơn một chút nữa là sự thịnh hành của Thiền tông sai lầm của Ma
Ha Diễn người Đường, tuy có ở chùa Tang
Da “tranh cãi về Đốn, Tiệm” nhưng các tăng sư Thiền tông sai lầm đã thất bại. Học thuyết của Tịch Hộ (Liên Hoa Giới) và chú thuật của Liên Hoa Sinh đã thống ngự toàn diện tôn giáo ở Tây Tạng.
Trung Quán, Mật pháp và Thiền tông được truyền thụ ở thời kỳ đặt nền móng của Phật (Mật) giáo Tây Tạng, về bề ngoài tuy là Phật giáo, nhưng trên thực tế là những tri kiến đã bị bóp méo, giải thích sai lầm, đã tách rời khỏi chính pháp của Như Lai. Huống hồ lại còn thu nạp thêm cả vu thuật (thuật đồng cốt phù thủy) của Bôn giáo.
Sau khi thành lập các “tông phái” của Mật giáo giai đoạn sau này lại xuất hiện các loại thiên kiến, nhận định riêng, các “tông phái” đã sáng tác ồ ạt sách luận của tông phái mình đồng thời tiến hành phán xét các giáo phái khác trên cơ sở giáo lý của tông phái mình, nâng cao vô hạn giáo pháp và quả chứng của phái mình. Ngoài ra, các tông phái này còn tranh giành lẫn nhau về quyền chấp chính và quyền truyền giáo, đặt tâm trí vào vòng lợi ích của thế tục pháp, thậm chí vì thế mà trụy lạc, tha hóa.
Tuy có trải qua quá trình xây dựng chính kiến của “phái Giác Nãng” và cải cách tư cách thực tu song thân pháp của “Tông Khách Ba”, song trời không bảo hộ cho Tây Tạng. Phái Giác Nãng bị thất bại đến mức bị bức hại và bị trục xuất, còn “Tông Khách Ba” lại ngộ nhận kiến giải tầm thường của phàm phu Trung Quán phái Ứng Thành là
“Liễu nghĩa”. Nói tóm lại, trong quá trình phát triển trường kỳ dưới điều kiện tiên thiên (bẩm sinh) không toàn diện, hậu thiên mất cân bằng, các tôn giáo ở vùng Tây Tạng trước sau cũng chỉ lướt qua vai của Phật pháp (Hiển giáo) chính thống mà đi, bỏ lỡ mất nhân duyên huân tập chính pháp mà rơi vào trong tín ngưỡng quỷ thần và văn hóa chú thuật sùng bái tình dục. Trải qua hết đời này đến đời khác bị dẫn dắt sai lầm, cộng nghiệp giữa các bên càng ngày càng sâu nặng, đến nỗi mà khách chiếm chỗ chủ, hiển dương Mật giáo mà hạ thấp Hiển giáo (Phật giáo Đại thừa chính thống) như kiểu ăn mày đuổi thủ từ miếu vậy, lấy Mật giáo thay thế cho Phật pháp. Điều này không những tránh xa Phật quang phổ chiếu mà còn tệ hại hơn nữa là hủy báng công đức của chính pháp. Còn cái gọi là lục tự chân (vọng) ngôn và cuốn kinh (giả) mà nó dựa vào đã được đóng gói, tô điểm, hoằng truyền ở Tây Tạng trong hoàn cảnh tôn giáo loạn thần, quái dị này, dẫn đến dẫn dắt sai lầm cho chúng sinh.
Cuối cùng, xin được đưa ra một số đoạn văn có cái nhìn chính xác về “Mật giáo” và “chú ngữ” Mật giáo trong các tác phẩm của Hội đồng tu Chính Giác Phật giáo, xin hãy đọc kỹ, có thể bỏ tà quy chính, theo lành tránh dữ:
Cái Tâm được nói trong “Bát Nhã ba la mật đa Tâm kinh” và “U tán” đều là chỉ cái Tâm Tự tính thanh tịnh. Tâm này là Tâm chân thực không hư ảo,
là Tâm không sinh không diệt, thể xác của nó tựa như hư không, tính của nó như Kim Cương,
là cái Tâm vi mật mà khó nhìn thấy lại “trinh, thực” không ai có thể làm hoại được… Tất cả mọi hiền thánh cho đến chư Phật tam thế thị hiện trong tam giới đều vì ngộ được cái Tâm Kim Cương Bát Nhã này, đều vì ngộ được cái Tâm Thực Tướng này mà sinh ra trí tuệ, từ đó mà đạt được cái pháp đáo bỉ ngạn (sang bờ bên kia – được giải thoát).
Cho nên mới nói “Bát Nhã ba la mật đa Tâm kinh”
là Đại thần chú, là Đại minh chú,
là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú. (Trích từ “Giả Như Lai Tạng”, trang 254,
do Tổ pháp nghĩa của Hội cộng tu Đài Nam thuộc Hội đồng tu Chính Giác Phật giáo viết).
Nếu như vì để giành được lợi ích thế gian,
“như cầu cảm ứng và đuổi tà quỷ…” thì dùng các pháp trì chú sẽ có tác dụng. Ví dụ theo như “Đại Nhật kinh” và các “kinh điển” của Mật tông nói thì trì chú có thể giành được rất nhiều ích lợi về mặt pháp thế gian. Việc vận dụng những mật chú và thủ ấn theo những “kinh điển” Mật tông tạo ra tuy có thể giành được rất nhiều lợi ích theo pháp thế gian song cũng cần biết rằng các vị “Phật Bồ tát”
ở đó kỳ thực phần lớn đều là do quỷ thần biến hiện, còn những cái mà Phật Bồ tát thực sự thuộc Phật giáo thị hiện ra rất ít. Những pháp trong pháp giới quỷ thần cũng giống như những giao dịch trong nhân gian: nếu bên này bỏ ra nỗ lực cho người, hoàn thành những nguyện vọng của người cầu cúng thì cũng mong cầu sự báo đáp của người đó.
Cho nên, quỷ thần cũng xem nhân duyên mà đòi hỏi sự báo đáp của người. Nếu như khi quỷ thần muốn có sự báo đáp, người lại không thể đáp ứng đủ, thỏa mãn nhu cầu của nó thì quỷ thần sẽ thường tìm cách quấy nhiễu, khiến cho tâm thần gia trạch của người đó không thể yên ổn. (Trích từ cuốn “Cuồng Mật và chân Mật” tập 1 trang 181 của đạo sư Bình Thực, nhà xuất bản Chính Trí).
Trì chú không thể khiến cho người ta giành được những quả chứng về mặt Phật pháp, trì tụng những câu chú theo kinh điển Mật tông cũng không thể tiêu trừ được trọng tội phỉ báng Tam Bảo. (Trích từ cuốn “Nguy cơ của Phật giáo” trang 163 của đạo sư Bình Thực, Hội Đồng tu Chính Giác Phật giáo).
Mật tông thời kỳ đầu chỉ là tôn giáo trì minh chú (niệm chú để cầu thần Hộ pháp cảm ứng trừ tai ương) bám víu vào Phật giáo để tồn tại, vốn nó không phải là Phật giáo. Sau này,
do trường kỳ sử dụng những thủ đoạn sùng Mật giáo đè Hiển giáo, dần dần khách chiếm chỗ chủ, thay thế vị trí của Phật giáo chính thống, trở thành người đại diện cho Phật giáo. Những người theo “khẩu Mật” nói rằng trì tụng chân ngôn theo những câu chú mà Mật kinh thời kỳ đầu tạo ra để cầu Phật Bồ Tát và thần Hộ pháp giúp họ gia trì, mong cầu bình an hoặc khi
tu học Phật pháp có thể giảm bớt đi một số trở ngại. Những người tu trì như vậy, lấy pháp Kim Cương niệm tụng để tự tu, không cần cho người khác biết, cho nên gọi là
“khẩu Mật”… Chính vì sự tu chứng của Mật giáo rất thô thiển, nên khó có thể đi sâu vào chính lý của Phật pháp. Vì tham muốn chuyện tranh chấp dài ngắn với Hiển giáo mà đã thu nhận những tư tưởng của phái Tính Lực ngoại đạo, vừa bí mật không cho người khác biết lại vừa thổi phồng lên thành Mật pháp cao hơn có thể khiến cho người ta có thể “tức thân thành Phật”, trùm đầu người khác. Chính vì thế mà dẫn đến việc về sau Mật giáo trong Phật giáo đã biến khách thành chủ (chiếm chỗ), và xuất hiện những sự thực lịch sử pháp ngoại đạo thâm nhập và soán chỗ của Phật giáo chính thống, khiến cho Phật giáo ở đây (Tây Tạng) bị diệt vong. (Trích từ “Cuồng Mật và Chân Mật” tập 4 trang 1282 của đạo sư Bình Thực, nhà xuất bản Chính Trí).
Rất nhiều pháp như tên kinh, lời chú, thủ ấn và thân ấn do họ (Mật giáo) nói đều thuộc pháp quỷ thần. Mật tông vốn là pháp dựa vào thần Hộ pháp của Phật giáo. Có những người trong Mật tông yêu thích pháp hữu vi, nên đã tu luyện pháp hữu vi
do thần Hộ pháp truyền lại, sau này lại lấy sai truyền sai (tam sao thất bản), biến thành pháp của thần Hộ pháp lại còn cao hơn cả pháp của Phật. Kết quả là biến thành Mật giáo của thần Hộ pháp. Sau này lại còn biến thành khách chiếm chỗ chủ, sáng tạo ra
“Kim Cương Trì Phật” thay thế cho địa vị của Phật Thích Ca. Phật giáo của Thiên Trúc đã bị tiêu diệt như vậy, biến thành Lạt Ma giáo, đã không còn hình hài của Phật giáo nữa. (Trích từ cuốn “Tà kiến và Phật pháp” trang 96 của đạo sư Bình Thực, Hội đồng tu Chính Giác Phật giáo).
Chú thích của người dịch: Vật thần thánh từ trên trời rơi xuống.
Những vật cúng phẩm trong “Đại Chiêu tự”
- ngôi tự viện đầu tiên của đất Tạng là:
11 tượng Quán Thế Âm Bồ Tát tạc theo tướng của Tùng Tán Can Bố; tượng Thế Tôn bất động Kim Cương Phật (Tượng Thích Ca Mâu Ni
8 tuổi), tượng Phật Di Lặc pháp luân, tượng Chiên đàn Độ mẫu và các cuốn kinh “Bảo khiếp trang nghiêm kinh”,
“Kinh bộ bạch liên” do Xích Tôn công chúa của Nepal đem đến. Ngoài ra, các thợ của Nepal
ở Thổ phiên đã tạc tạo nên các thần tượng như Thế gian tự tại, Phẫn nộ Độ mẫu, Thánh cứu Độ mẫu, Diệu âm Tiên nữ, Cát tường mã đầu minh vương và cả Long vương,
La Sát, Dạ Xoa, Đại hắc thiên, Cát tường thiên nữ… Xem tại cuốn “Phật giáo Thổ phiên” của Nãi Tạng Gia, trang 29-32. Tất cả đều là Mật giáo thời kỳ cuối tư tưởng đã chín muồi rồi.
[3] Chú thích của người dịch: Phật giáo chủ trương Bát thức luận, nhưng ở đây là phái Lục thức luận, chỉ chấp nhận ý thức con người là cao cấp nhất.
[4] Chú thích của người dịch: Tức phép tu Đốn ngộ (ngộ đạo ngay lập tức tại chỗ) và Tiệm ngộ (ngộ đạo dần dần từng bước).
I. TIẾT LỘ BÍ MẬT CỦA LỤC TỰ ĐẠI MINH
CHÚ
II. NHẬN BIẾT THẬT GIẢ CỦA KINH “PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA TRANG
NGHIÊM BẢO VƯƠNG”
HÌNH
MINH HỌA
124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT! Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết...