Thứ Bảy, 15 tháng 7, 2023

124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

 

124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết đúng PHƯƠNG PHÁP để đi tới giải thoát hoàn toàn.

Những ai muốn giải thoát đúng PHƯƠNG PHÁP, hãy đọc kỹ bài Chánh Kinh "PHÙ DI", số 126, Trung Bộ 3, sẽ thấy rõ.

Dưới đây là câu hỏi của Vương tử Jayasena và câu trả lời của Tôn giả Bhumija:

“-- Thưa Tôn giả Bhumija, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lý thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Nếu có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu không có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu có và không có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu không có và không không có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị". Ở đây, bậc Ðạo sư của Tôn giả Bhumija có nói gì, và có lập luận gì?

-- Thưa Vương tử, tôi không tận mặt Thế Tôn được nghe như vậy, được ghi nhớ như vậy. Và sự việc này xảy ra, Thế Tôn có giải thích như sau: "Nếu có ước nguyện, hành Phạm hạnh không chánh đáng (ayoni so), thời không đạt được quả vị; nếu không có ước nguyện, hành Phạm hạnh không chánh đáng, thời không đạt được quả vị; nếu có và không có ước nguyện, hành Phạm hạnh không chánh đáng, thời không đạt được quả vị; nếu không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh không chánh đáng, thời không đạt được quả vị”

Sau đó Tôn giả Bhumija đến bạch với Đức Thế Tôn và được Ngài dạy thêm:

“-- Thật vậy, này Bhumija, được hỏi vậy, được trả lời vậy, Ông nói đúng lời Thế Tôn nói, Ông không xuyên tạc Thế Tôn với điều không đúng sự thực, Ông đã giải thích đúng pháp, tùy pháp, và một vị đồng Phạm hạnh nói đúng pháp, tùy pháp không có lý do gì để chỉ trích.

Này Bhumija, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, nếu họ có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu họ có và không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu họ không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị.

Vì sao vậy? Ðây không phải là phương pháp, này Bhumija, để đạt được quả vị.

Này Bhumija, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định; nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, họ đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, họ đạt được quả vị; nếu họ có và không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, họ đạt được quả vị; nếu họ không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị.

Vì cớ sao? Ðây là phương pháp, này Bhumija, để đạt được quả vị.”

Ý kiến: Chính Đức Thế Tôn trước sau như một đã định nghĩa rõ ràng Chánh Niệm là Bốn Niệm Xứ, Chánh Định là Tứ Thiền – Tứ Thánh Định. Thế nhưng các nhà Đại Thừa xem thường và không thực hành theo các Chánh Đạo này.

Vì thế dù họ có ước nguyện hay không có ước nguyện thì họ cũng không thể đạt được quả vị của Chánh đạo. Có chăng họ chỉ đạt được quả vị của tà đạo hoặc của đạo tưởng mà thôi.

Lại nữa, trong bài kinh Katthahàra (S.i,180), Đức Thế Tôn đã nói bài kệ cho Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja:

“(Thế Tôn):

Phàm có ước vọng gì,

Hay những ái lạc gì,

Những gì kẻ phàm phu,

Thường chấp trước các giới,

Các tham ái khởi lên,

Từ gốc rễ vô minh,

Tất cả Ta đoạn tận,

Trừ cả gốc lẫn rễ.

Nay Ta không ước nguyện,

Không tham ái, chấp trước,

Ðối với tất cả pháp,

Ta thấy đều thanh tịnh.

Ðạt được Chánh Ðẳng Giác,

Và mục đích tối thượng,

Ta tu tập Thiền định,

Vắng lặng, không sợ hãi.

TẠP CHÍ HỌC PHẬT

123-NGUYỆN DẠI TÁI SANH

 

123-NGUYỆN DẠI TÁI SANH

Chủ trương nhập thai tái sanh của các Lạt Ma Mật tông Đại thừa có đúng theo chủ trương của Đức Phật không? Hai trích đoạn kinh dưới đây là câu trả lời:

 Trích kinh Tướng Quân Sīha, Tăng Chi tập 3, Chương 8, II. Phẩm Lớn

Đức Thế Tôn nói với Tướng quân Siha: "7) ... Và này Sīha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương không nhập thai, thuyết pháp về không nhập thai và huấn luyện các đệ tử như vậy"?

Này Sīha, với ai đã đoạn tận sự nhập thai trong tương lai, sự tái sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương laiTa tuyên bố người ấy là người chủ trương không nhập thai. Này Sīha, Như Lai đã đoạn tận sự nhập thai trong tương lai, sự tái sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.

Này Sīha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương không nhập thai, thuyết pháp về không nhập thai và huấn luyện các đệ tử như vậy".

 Trích kinh Udaya (S.i,173)

 "4) (Thế Tôn):

… Nhiều lần và nhiều lần,
Mệt sức và lao khổ.
Nhiều lần và nhiều lần,
Kẻ ngu nhập bào thai.
Nhiều lần và nhiều lần,
Lại sanh rồi lại chết.
Nhiều lần và nhiều lần,
Họ mang đến nghĩa địa.

Họ được đường giải thoát,
Không đưa đến tái sanh.
Bậc đại trí, đại tuệ,
Không sanh đi, sanh lại…"

] Thế đấy, trong khi Đức Phật chủ trương không nhập thai giải thoát hoàn toàn, và nêu rõ kẻ ngu mới nhập bào thai sanh tử tới lui, thì các vị Mật Tông và Đại Thừa lại nghe theo các Tổ sư gốc Bà-la-môn chống lại Đức Thế Tôn, hô hào nguyện đại tái sanh. Các nghịch tử này không những không phải là Bậc Đại trí, Đại tuệ; mà còn phạm tội vô minh nữa.

Thật vậy, trong bài kinh Giáo Giới Channa, số 114, Trung Bộ 3, Đức Phật có nêu rõ điều này. Tại đây, vị Tỷ-kheo Channa trước lúc cận tử nghiệp đã chủ động dùng con dao (Tứ Thiền) để chấm dứt thọ hành của mình. Tôn giả Sariputta đã trình lại sự việc cho Đức Thế Tôn và có ý nói sự ra đi của ngài Channa là thiệt thòi cho các người thân và gia đình hộ độ cho ngài Channa. Các thí chủ ấy đã mất đi một vị chân tu giảng Pháp và một nguồn phước để họ cúng dường.

Dầu vậy, Đức Thế Tôn vẫn khẳng định Tỷ-kheo Channa không có lỗi khi ngài bỏ thân này và không còn tái sanh. Trái lại, những ai từ bỏ thân này lại chấp thủ tái sanh làm thân khác mới phạm tội. Các Đại Thừa sư và Mật Tông tăng nào còn nguyện dại tái sanh độ tha, hãy ghi nhớ kỹ lời dạy này của Đức Thế Tôn để không mang tội với Đức Phật, với chính mình, và với những ai tin mình:

-- Này Sariputta, có những gia đình ấy là những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì Tỷ-kheo Channa, những gia đình cần được viếng thăm. Này Sariputta, cho đến nay, Ta không nói rằng Tỷ-kheo Channa có phạm tội. Này Sariputta, ai quăng bỏ thân này, và chấp thủ thân khác, Ta nói rằng người ấy có phạm tội. Tỷ-kheo Channa không có (chấp thủ) như vậy. Tỷ-kheo Channa đem con dao lại (cho mình), không có phạm tội.” (Sđd)

CHÁNH MẬT TỬ


122-LA MA ĐẠI THỪA CÃI PHẬT NGUYỆN TÁI SANH

 

122-LA MA ĐẠI THỪA CÃI PHẬT NGUYỆN TÁI SANH

Trong Đại Thừa giáo, nhất là Mật Tông, rất phổ biến chuyện các nhà sư nguyện tái sanh độ đời. Họ có làm chủ được tái sanh thật không, chỉ có Đức Phật là biết rõ. Nhưng rõ ràng là các vị này cãi lời Phật.

Bởi, trước sau như một, Đức Phật Thích Ca chủ trương không tái sanh, đoạn dứt luân hồi, giải thoát hoàn toàn. Dưới đây là trích đoạn một số bài Chánh Kinh Đức Phật Thích Ca khuyên dạy không tái sanh.

Trích Kinh Rắn (Sn 1)

16. Với ai, không có gì,
Do rừng ái sanh khởi,
Tạo nhân khiến trói buộc
Con người vào tái sanh
.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Với ai có dính mắc
Do dại nguyện sanh khởi
Muốn trầm luân vô minh
Nên luân hồi sanh tử
Theo tà pháp không bỏ
Cứ mong muốn tái sanh
Như loài rắn chui rúc
Trong rừng rậm tối mù.
Kiếp này xa Chánh Pháp,
Kiếp sau đọa cõi mù.

Trích Kinh Dhaniya (Sn 3)

29. Giống như con bò đực,
Giật đứt các trói buộc,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Như voi làm bựt đứt
Các giây leo héo mục,
Ta không còn đi đến,
Chỗ thai tạng tái sanh
.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi
.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Giống như con thiêu thân,
Lao mình vào lửa cháy,
Người khôn không như vậy,
Theo gương bậc Đại Hùng,
Như người hiền tránh ác,
Tránh luôn cả khổ đau,
Không còn muốn đi đến,
Chỗ tái sanh thai tạng.
Nếu ai muốn trái ngược,
Cứ đường dữ lao đi.

Trích Kinh Từ Bi (Metta Sutta) (Sn 25)

152. Ai từ bỏ tà kiến,
Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái,
Ðối với các dục vọng,
Không còn phải tái sanh,
Ði đến thai tạng nữa

{ Thừa tự Pháp trích lục

Ai cố chấp tà kiến,
Tà giới, thiếu chánh kiến,
Bị tham ái nhiếp phục,
Trong tâm đầy dục vọng,
Cứ còn muốn tái sanh,
Đi đến thai tạng nữa,
Tạo khổ đau nhiều phía,
Như vậy chẳng từ bi,
Với mình và với người.

Trích Kinh Hemavata (Sn 27)

Sātāgira:

163. Sự thật là vị ấy,
Ðầy đủ với các Minh,
Ðây là lời Dạ-xoa,
Tên Sātāgira
Sở hành thật thanh tịnh,
Mọi lậu hoặc đoạn tận,
Thật sự đối vị ấy,
Không còn có tái sanh
.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Dạ-xoa kia còn biết,
Vị đầy đủ các Minh,
Các phiền não đoạn tận,
Mới không còn tái sanh.
Nhưng nhiều người thiếu trí,
Tin theo kẻ lọc lừa,
Cùng tà pháp, dại nguyện,
Phải tái sanh luân hồi,
Trong nhà lửa khổ đau.

Trích Kinh Sūciloma (Sn 47)

273. Hãy nghe! Này Dạ-xoa,
Những ai được rõ biết
Từ đâu, khiến sanh khởi,
Họ tẩy sạch nhân ấy.
Họ vượt qua dòng nước,
Chảy mạnh khổ vượt này,
Trước chưa được vượt qua,
Không còn có tái sanh.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Hãy nghe! Này Dại nhân,
Những ai 
tin Đại ác,
Khiến 
tà pháp sanh khởi,Không tẩy sạch nhân ấy,
Khó vượt qua dòng nước,
Chảy mạnh
 đầy khổ đau,
Trước 
sau không vượt được,Dòng tái sanh luân hồi.

Trích Kinh Māgha (Sn 86)

Phật dạy cho thanh niên Māgha

“...502. Những ai ngay đời này,
Như thật rõ biết được,
Ðây đời sống cuối cùng,
Không còn có tái sanh,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Đúng thời cúng dường vị
Không còn phải tái sanh,
Gieo duyên lành Chánh Pháp,
Nhờ dòng Pháp lưu chuyển,
Tới bến bờ an vui,
Không còn phải trở lui,
Trong đầm lầy hôi thối.

Trích Kinh Sabhiya (Sn 91)

514. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai chính với con đường,
Do tự mình tạo ra,
Ði đến sự tịch tịnh,
Vượt qua các nghi hoặc,
Từ bỏ, đoạn tận hẳn
Cả hữu và phi hữu,
Phạm hạnh đã thành tựu,
Tái sanh đã đoạn tận,
Vị ấy được xứng danh,
Gọi là vị Tỷ-kheo
.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Ai không bỏ, đoạn tận
Cả hữu và phi hữu,
Phạm hạnh không thành tựu,
Còn tái sanh luân hồi,
Vị ấy chưa xứng danh,
Là người con của Phật.
Vị ấy còn đứng ngoài,
Chánh giáo pháp Thế Tôn,
Còn ở xa giải thoát,
Mọi phiền não khổ đau,
Không phải là con Phật.

Trích Kinh Vāsettha (Sn 115)

Thế Tôn dạy cho hai thanh niên Bà-la-môn Vāsettha và Bharadvaja

“...656. Ba Vệ-đà thành tựu,
An tịnh, tái sanh đoạn,
Vāsettha nên biết,
Kẻ ấy được Phạm Thiên,
Ðược Thiên chủ Sakka,
Biết đến thật tường tận.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Bà-la-môn đoạn tận,
Không còn phải tái sanh,
Đến Phạm Thiên còn biết,
Thiên chủ Sakka khen.
Nhưng nhiều người không biết,
Cứ dại nguyện tái sanh,
Vì nghe theo tà đạo,
Lạc cõi mù khổ đau.

THÍCH CHÁNH KINH sưu tầm


121-PHẬT DẠY TÁI SANH LÀ VÔ MINH. CÁC ĐẠI THỪA SƯ CÃI PHẬT, NGUYỆN TÁI SANH

 

121-PHẬT DẠY TÁI SANH LÀ VÔ MINH. CÁC ĐẠI THỪA SƯ CÃI PHẬT, NGUYỆN TÁI SANH

Trích Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán (Sn 139)

* Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: "Có thể có chân chánh tùy quán hai pháp theo một pháp môn khác không?" Các Thầy cần phải trả lời: "Có thể có". “Có thể có như thế nào?”

- "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên vô minh", đây là tùy quán thứ nhất.

- "Do đoạn diệt, ly tham vô minh không có dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây là tùy quán pháp thứ hai.

Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Ðược chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất Hoàn.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

729. Những ai tiếp tục rơi,
Dòng luân chuyển sanh tử,
Ðến hữu này hữu khác,
Sanh thú do vô minh.

730. Vô minh này, đại si,
Ðưa đến luân chuyển dài,
Chúng sanh, Minh đạt được,
Không còn phải tái sanh
...”

{ Thừa tự Pháp trích lục

Tái sanh do vô minh,
Không tái sanh là Minh,
Nguyện luân hồi, đại si,
Đến khổ này khổ khác,
Do đức tin lầm lạc,
Vào tà giáo bịp lừa,
Đúng, vô minh là khổ.
Tà tín cũng khổ lây.

Trích Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán (tt)

 “Bậc Ðạo sư lại nói thêm:

731. Phàm khổ gì hiện hữu,
Tất cả duyên các hành,
Do đoạn diệt các hành,
Khổ không có hiện hữu.

732. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên các hành,
Tịnh chỉ tất cả hành,
Do phá hoại các tưởng,
Như vậy, khổ được diệt,
Biết như thực là vậy.

733. Bậc Hiền trí chánh kiến,
Hiểu biết, với chánh trí,
Nhiếp phục Ma kiết sử,
Không đi đến tái sanh
.
...”

{ Thừa tự Pháp trích lục

Kẻ vô trí tà kiến,
Tà tín vào tà nhân,
Chấp tà giới, tà pháp,
Bị ác ma trói cột,
Cứ tái sanh luân hồi.

Trích Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán (tt)

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

742. Do duyên thủ, có hữu,
Do hữu, đi đến khổ,
Từ sanh nên có chết,
Ðây hiện hữu của khổ.

743. Do vậy, bậc Hiền trí,
Diệt thủ, nhờ chánh trí,
Nhờ thắng trí sanh diệt,
Không đi đến tái sanh
...”

{ Thừa tự Pháp trích lục

Cứ ước nguyện tái sanh,
Do chấp thủ tà pháp,
Cứ hữu sanh, hữu khổ,
Phải già chết luân hồi,
Vì bị ma trói cột,
Nhưng cứ tưởng oai hùng,
Khổ lại thêm cùng khổ.
Khổ khổ là như vậy.

Trích Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán (tt)

 “746. Do đoạn tận hữu ái,
Tâm Tỷ-kheo tịch tịnh,
Vượt khỏi sanh luân chuyển
Vị ấy không tái sanh.
...”

{ Thừa tự Pháp trích lục

Không đoạn tận hữu ái,
Tâm khó an, tịch tịnh,
Cứ tái sanh luân chuyển,
Trong nhà lửa mê mờ.

Trích Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán (tt)

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo sư lại nói thêm:

754. Chúng sanh thuộc sắc giới,
Chúng sanh trú vô sắc,
Không tuệ tri đoạn diệt,
Chúng đi đến tái sanh
.

755. Những ai liễu tri sắc,
Khéo an trú vô sắc,
Giải thoát trong đoạn diệt,
Họ từ bỏ sự chết.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Không tái sanh, không chết,
Giải thoát mọi hiểm nguy,
Biết đường cứu người khác,
Vị tự cứu được mình.

Bản thân còn lầm lạc,
Trong tà pháp luân hồi,
Nói cứu cho người khác,
Là chuyện hão huyền thôi.

* Trích Kinh Hang Ðộng Tám Kệ (Sn 151)

779. Do liễu tri các tưởng,
Vượt qua khỏi bộc lưu,
Bậc Mâu-ni không nhiễm,
Ðối với mọi chấp thủ,
Với mũi tên rút ra,
Sở hành không phóng dật,
Không cầu mong đời này,
Không mong ước đời sau
.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Không liễu tri các nguyện,
Không vượt khỏi tà kinh,
Bị tà nhân dẫn giắt,
Chấp thủ mọi tà pháp,
Bị dính mũi tên ma,
Cả đời này tụng chú,
Cả đời sau khổ bù.

Câu Hỏi Của Thanh Niên Pingiya (Sn 217)

Đức Thế Tôn dạy cho thanh niên Pingiya

Thế Tôn:

1121. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Pin-gi-ya,
Thấy được sự tác hại,
Trong các loại sắc pháp,
Chúng sanh sống phóng dật,
Bị phiền lụy trong sắc,
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật,
Hãy từ bỏ sắc pháp
Chớ đi đến tái sanh.
...

Thế Tôn:

1123. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Pin-gi-ya!
Thấy chúng sanh loài Người,
Rơi vào trong khát ái,
Bị già nua đốt cháy,
Bị già nua chinh phục
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật
Hãy từ bỏ khát ái,
Không còn bị tái sanh
.

{ Thừa tự Pháp trích lục

Hỡi này Bà con ma,Chỉ với một Kinh Tập,Phật dạy biết bao lần,Vô minh phải tái sanh,Có Minh luân hồi dứt.
Do vậy, 
Bà con ma,Các người chớ tin bậy,
Hãy từ bỏ 
hắc pháp
Chớ 
dại nguyện tái sanh.

Hỡi này Bà con ma!Chớ có tin tà nhân,
Rơi vào trong 
tà đạo,
Bị 
vô minh che phủ,
Bị 
tà kiến bao trùm
Do vậy, 
Bà con ma,Mỗi người mau tỉnh thức
Hãy từ bỏ 
ác pháp,
Không còn bị tái sanh.

Trên đây mới chỉ là các trích đoạn trong Kinh Tập, một tạng Kinh nhỏ trong toàn bộ Chín Tạng Thánh Kinh của Chư Phật; thế nhưng cũng đủ nói rõ chủ trương không tái sanh của Chư Phật, nêu rõ tái sanh là vô minh, giải thoát không còn tái sanh là Minh.

Bản thân mỗi người có giải thoát mới biết cách giúp người khác giải thoát. Mình còn chìm trong tham-sân-si, luân hồi khổ đau mà nói chuyện cứu cho người khác là nói khoác, nói láo. 

Các Tỳ-kheo Thanh Văn nỗ lực ngay trong hiện tại để cứu mình, sau đó tích cực đào tạo thế hệ theo sau tự đảm trách nhiệm vụ của mình, vì thế các ngài không cần phải tái sanh nhưng vẫn thực hiện trọn vẹn đạo lý Từ Bi của người con Phật.

Thế nhưng các tổ sư Bà-la-môn gián điệp phải xóa bỏ chánh lý này. Họ phải lươn lẹo để giắt dẫn con Phật theo một mê lộ khác trái ngược với truyền thống cũ. 

Họ phải tung vào các kinh giả, luật giả, luận dỏm để phá hoại Phật Pháp ngay từbên trong

Họ phải đưa pháp môn niệm chú, cùng các hình thức tế lễ theo kiểu Bà-la-môn giáo vào trong Đạo Phật nhằm biến thái Đạo Phật. 

Họ phải ngụy biện cho tà nguyện ‘tái sanh cứu đời’ để phân hóa Tăng chúng, lôi kéo con Phật xa rời Chánh Pháp của Phật, làm suy đồi Phật giáo.

Tóm lại mỗi người con Phật phải ý thức rõ việc này để tự cứu lấy chính mình và giúp cho mọi người.

TẠP CHÍ PHẬT HỌC CHÁNH TRUYỀN


120-MẬT TÔNG GỐC HINDU GIÁO!

 

120-MẬT TÔNG GỐC HINDU GIÁO!

Thật vậy, biểu tượng tạo hình hoa Mạn-đà-la (Mandala) của Mật Tông chính là kế thừa tập tục của phái bện tóc ngoại học. Nghi thức này được các ngoại học dùng trong buổi lễ đặc biệt như các đại tế đàn, đón vua, đám cưới...

Thêm vào đó, việc dạy nhau tụng chú cũng chính là truyền thống của các Bà-la-môn chứ không của ai khác. Một vài đoạn trích lược Chánh Kinh dưới đây là những minh chứng cụ thể:

 Trích Kinh Sena, số 92, Trung Bộ II

“… Các thân hữu, bà con huyết thống của bện tóc Keniya vâng đáp bện tóc Keniya. Có người thời đào hố (làm lò nấu); có người bửa củi; có người rửa chén bát; có người sắp đặt ghè nước; có người sửa soạn ghế ngồi; còn bện tóc Keniya tự mình dựng lên một giàn hoa hình tròn (Mandalamala).

Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sela trú tại Apana, vị này tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng. Vị này dạy chú thuật (manta) cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn.

Lúc bấy giờ bện tóc Keniya có lòng tín thành với Bà-la-môn Sela. Rồi Bà-la-môn Sela, với ba trăm thanh niên Bà-la-môn vây quanh, tản bộ du hành đi đến tinh xá của bện tóc Keniya.

Bà-la-môn Sela thấy tại tinh xá của bện tóc Keniya, có người thời đào hố (làm lò nấu); có người bửa củi; có người rửa chén bát; có người sắp đặt ghè nước; có người sửa soạn ghế ngồi; còn bện tóc Keniya tự mình dựng lên một giàn hoa hình tròn. Thấy vậy, Bà-la-môn Sela bèn nói với bện tóc Keniya:

-- Có phải bện tóc Keniya sẽ rước dâu hay sẽ đưa dâu, hay một đại tế đàn được chuẩn bị, hay vua Seniya Bimbisara nước Magadha được mời ngày mai với cả binh lực?

-- Thưa Tôn giả Sela, tôi không có rước dâu, cũng không đưa dâu, vua Seniya Bimbisara nước Magadha không có được mời ngày mai với cả binh lực, nhưng tôi chuẩn bị một đại tế đàn. Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya, du hành ở Anguttarapa cùng với đại chúng Tỷ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, và đã đến Apana. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về Tôn giả Gotama được khởi lên: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn." Vị ấy được con mời ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo.” 

 Trích Kinh Ambattha, MN 3

“Lúc bấy giờ Thế Tôn nghĩ rằng: "Các thanh niên đã phỉ báng quá đáng thanh niên Ambattha là con một nữ tỳ rồi. Nay Ta hãy giải tỏa cho Ambattha". Rồi Thế Tôn nói với các thanh niên:

- Các thanh niên, các ngươi chớ có phỉ báng quá đáng thanh niên Ambattha là con một nữ tỳ. Kanha ấy trở thành một tu sĩ vĩ đại. Vị này đi về miền Nam, học các chú thuật Phạm thiên, rồi về yết kiến vua Okkāka và yêu cầu gả công chúa Khuddarūpi cho mình…

- Và những người Bà-la-môn có dạy các chú thuật hay không?

- Tôn giả Gotama, có dạy.”

 Trích Kinh Sonadanda (Chủng Ðức)số 4, Trường Bộ I

--- “13. Rồi Bà-la-môn Sonadanda ngồi thẳng lưng, nhìn xung quanh hội chúng và bạch Đức Thế Tôn:

- Có năm đức tánh, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể khi nói: "Tôi là Bà-la-môn ", lời nói ấy chơn chánh, không phải là lời nói dối. Thế nào là năm?

Ở đây, này Tôn giả, người Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh.

Vị ấy là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedā với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân.

Vị ấy đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.

Vị ấy có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày.

Và vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng (để đổ bơ làm lễ tế thần).

Này Tôn giả Gotama, đó là năm đức tánh, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.

] Ý kiến Phật Tử: Đấy là từ Chánh Kinh chính gốc. Chỉ có điều, ngay cho dù trì chú đối với các Bà-la-môn là một trong năm đức tánh căn bản, thế nhưng chính những Bà-la-môn cũng sẵn sàng từ bỏ trì chú để giữ lại những đức tánh khác.

Trong bài kinh trên, Đức Thế Tôn hỏi Bà-la-môn Sonadanda có thể bỏ những đức tánh nào vẫn có thể xem là một Bà-la-môn. Sau khi Bà-la-môn trưởng lão Sonadanda đã từ bỏ yếu tố dung sắc, chỉ còn giữ lại bốn đức tánh (huyết thống, trì chú, đức hạnh, học rộng), Đức Thế Tôn đã hỏi tiếp:

“- Này Bà-la-môn, trong bốn đức tánh này, có thể bỏ qua một đức tánh nào, chỉ có ba đức tánh thôi, mà vẫn có thể gọi là Bà-la-môn và để có thể khi nói: "Tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy là lời nói chơn chánh, không phải là lời nói dối.

- Tôn giả Gotama, có thể được. Tôn giả Gotama, trong bốn đức tánh này, chúng tôi có thể bỏ chú thuật. Thật vậy, chú thuật làm được gì?...”

] Thế đấy, ngay như các Bà-la-môn mà còn sẵn sàng ném bỏ trì chú, thứ “chẳng làm được gì”, ấy thế mà các đệ tử Đại Thừa và Mật Tông, tin theo các tổ sư gốc Bà-la-môn, lại quơ lấy đồ phế thải của họ rồi thi nhau tụng hót: “Yết đế, yết đế, ba la tăng, yết đế… là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú”, đã thế còn dám “bắt” ba đời chư Bụt phải nương theo cái pháp “Ba-la-mật”  rỗng không hư ngụy (!?)

Quả thật, các đệ tử của trì chú đã không còn biết cửa địa ngục đang rộng mở chờ đón mình!

] Đương nhiên, các luận sư Bà-la-môn đứng ngoài Đạo Phật có hô hào cả ngàn năm rằng các pháp trì chú, đồ hình Mandala và “Aj-jun Ngàn tay giáng tai ương” không phải của họ mà của chính Đạo Phật; chắc hẳn chẳng có Phật tử nào thèm tin họ. Thế nhưng, các luận sư Bà-la-môn chỉ cần cải trang thành các Tổ sư, Đại sư, Bồ-tát của Phật giáo là tức khắc có biết bao tín đồ tin theo.

Chỉ có những kẻ quá ngây thơ khờ dại mới nghĩ rằng thế gian này chỉ có một mình Triệu Đà và Trọng Thủy là biết dùng kế sách gián điệp để đánh tráo nỏ thần thật bằng nỏ thần giả, phá tan thành trì của kẻ khác.

Và cũng chỉ có những “hài nhi tóc bạc” ngây thơ hơn cả con nít, mới không biết rằng con cáo muốn lừa bà ngoại của cô bé quàng khăn đỏ, nó phải giả tiếng của chính người thân của bà.

Và cũng chỉ có những kẻ cả tin ngây thơ như nhân dân thành Troy mới tự rước ‘Con ngựa gỗ to lớn trên cỗ xe đại pháo’ vào trong thành trì của mình để rồi bị tiêu diệt.

Chính vì thế, cũng chỉ có những người này mới nhắm mắt tin rằng các câu thần chú “Yết đế, yết đế, ba la yết đế… Úm ma ni bát mệ hồng…” …”, đồ hình Mạn-đà-la là của chính Đạo Phật.

Những đệ tử Mật Tông, Đại Thừa còn chờ đến bao giờ mới chịu tỉnh ngộ đây?

Theo PHẬT HỌC CHÁNH TÔNG


119-BẬT MÍ BÍ MẬT CỦA MẬT TÔNG!

 

119-BẬT MÍ BÍ MẬT CỦA MẬT TÔNG!

Đệ tử: Thưa sư phụ, trước sau và cùng thời với Đức Phật, đạo Bà-la-môn và các ngoại đạo khác cũng có thần chú. Làm sao để phân biệt thần chú nào của Mật giáo, thần chú nào của ngoại đạo, trong khi tất cả các câu chú đều là những cụm từ vô nghĩa?

Mật sư phụ: Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn có ngàn mắt sẽ thấy, và có ngàn tay để nhặt các câu chú không phải của Phật ra ngoài.

Đệ tử: Thưa sư phụ, có kẻ giải thích rằng người trì niệm chú nếu được tái sanh làm người cũng bị liệt tuệ, tâm thần bẩm sinh.

Mật sư phụ: Tầm bậy! Ngươi thấy có một vị Lạt Ma tái sanh nào bị trì độn, ngớ ngẩn không?

Đệ tử: Không ạ! Trái lại các ngài còn rất đĩnh ngộ và thông minh.

Mật sư phụ: Đúng vậy.

Đệ tử: Nhưng... có khi nào chúng ta lại đi chọn một đứa trẻ liệt tuệ bẩm sinh làm Lạt Ma bao giờ?

Mật sư phụ: Vớ vẩn… Chuyện bí mật tế nhị, không nên tào lao nữa!

Đệ tử: Dạ. Vậy con xin hỏi chuyện công khai nghiêm chỉnh. Nhưng trước hết, xin sư phụ cho con được sám hối.

Mật sư phụ: Lại chuyện gì? Có quan trọng không? Tội nặng hay nhẹ?

Đệ tử: Dạ, chuyện rất hệ trọng nhưng tội nhẹ hều.

Mật sư phụ: Chuyện chi hệ trọng lại nhẹ tội?

Đệ tử: Thưa, con đã lỡ đọc kinh điển Nguyên Thuỷ của hàng Thanh Văn Nhị Thừa. Theo Bồ-tát Giới con đã phạm khinh cấu tội. Xin sư phụ tha tội.

Mật sư phụ: Trời đất, ngươi cứ đọc ba cuốn kinh thấp kém đó rồi hỏi những câu óc ách, ta rất khó trả lời. Thôi được, ta chấp nhận sự sám hối của con, nhưng từ nay phải ráng giữ giới. Không cần đọc kinh, lại khỏi bị phạm tội, con nít cũng giữ được.

Đệ tử: Dạ, xin vâng. Thưa sư phụ, theo kinh Nguyên thuỷ của Tiểu Thừa, Đức Phật dạy các Tỳ-kheo quán “thức thực” trong bào thai phải chịu khổ đau như một tội nhân mỗi ngày bị đánh 300 hèo. Rồi Ngài hỏi các Tỳ Kheo như vậy có đau khổ không, các Tỳ Kheo trả lời rằng chỉ cần một hèo thôi đã đau thấu trời, huống hồ là 300 hèo. Các Lạt Ma tái sanh làm khổ chính mình và làm khổ người mẹ mang thai mình như thế, liệu các ngài có biết thương mình, thương mẹ mình; từ bi với mình, từ bi với mẹ mình không?

Mật sư phụ: Ờ… thì... chậc… phải chấp nhận đau khổ như vậy mới cứu được cho những đau khổ lớn hơn. Thế mới thấy hạnh nguyện Bồ-tát thật vĩ đại.

Đệ tử: Đức Phật Thích Ca và các vị Thánh A-la-hán không tái sanh, không chấp nhận đau khổ như vậy, nhưng vẫn cứu được cho những đau khổ lớn hơn. Các ngài chủ trương phải đào tạo những thế hệ theo sau đảm trách công việc của mình. Tại sao các vị Lạt Ma không làm như thế?

Mật sư phụ: À… thì… hầy, thiên cơ còn bất khả tiết lộ, huống hồ mật cơ.

Đệ tử: Tại sao trong Tăng Chi 1, chương 3, trang 516, Đức Phật lại tiết lộ mật cơ rằng Chú thuật của Bà-la-môn, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Tà kiến, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ… Pháp và Luật được Thế Tôn tuyên thuyết, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu”?

Mật sư phụ: Ừ… mà… mình cũng phải biết kế thừa tinh túy của người khác chứ. Có bí mật mới hấp dẫn người khác. Nói huỵch tẹc hết, chán lắm!

Đệ tử: Tinh túy hay ma túy hay yêu-tinh-túy? Nhưng thôi, con hỏi chuyện khác. Các Lạt Ma nói rằng đã làm chủ được tái sanh, vậy tại sao các ngài không tái sanh làm tổng thống hoặc vua một nước lớn để vừa hưởng được sung sướng nhỏ vừa cứu cho những nước nhỏ không bị xâm lăng, tránh khỏi những đau khổ lớn hơn?

Mật sư phụ: Cộng nghiệp là một trở duyên lớn hơn nữa.

Đệ tử: Tại sao các Lạt Ma không tái sanh làm giáo chủ các tôn giáo khác, sau đó dẫn đồ chúng quy y Phật Pháp để chuyển cộng nghiệp của họ, như ba anh em ngài Uruvelakassapa dẫn 1500 đệ tử cùng quy với Đức Thế Tôn?

Mật sư phụ: Điều đó còn tùy thuộc vào mật hạnh của vị thầy và mật nguyện của các đệ tử. Con không nghe đồn có những vị Lạt Ma đã biết trước sau khi chết họ sẽ tái sanh vào làng nọ, gia đình kia đó sao? Mọi việc xảy ra cứ đúng như máy tính.

Đệ tử: Tiếc thật! Giá như các vị Lạt Ma tái sanh có kèm thêm một chút trí tuệ để chọn cửa ra đời thì đã làm được nhiều điều lợi ích lớn hơn. Không chừng như vậy mật phái của chúng ta đã gồm thâu thiên hạ rồi cũng nên. Nghe đâu có nước còn đòi các Lạt Ma phải đăng ký trước khi tái sanh nữa đấy. Chẳng biết các ngài phải xoay sở làm sao? Liệu các ngài có chứng minh được không? À! Thưa sư phụ, làm sao con biết được kiếp trước mình có mật nguyện để được cứu rỗi?  

Mật sư phụ: Hãy đặt lòng tin tuyệt đối vào vị thày.

Đệ tử: Nhưng Đức Phật dạy, chớ có tin cho dù là kinh điển, là truyền thống… chớ có tin cho dù là bậc đạo sư của mình.   

Mật sư phụ: Đó là Ngài dạy cho các Kalama. Còn đối với mật đệ tử thì phải có mật chú riêng, mật ngữ riêng. Phật pháp có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn cơ mà.

Đệ tử: Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, trước lúc nhập Niết Bàn, Đức Phật đã khẳng định Ngài không truyền dạy hay còn giữ lại một mật pháp nào cả. Vả lại trong Kinh Tương Ưng, Đức Thế Tôn đã khẳng định những gì cần nói Ngài đã nói đó là 37 Phẩm Trợ Đạo. Tại sao sau này Phật giáo lại đẻ ra lắm pháp môn như thế?

Mật sư phụ: Vạn chúng sanh có vạn căn tánh thì phải có vạn pháp môn mới cứu độ hết được. Đường nào cũng đến La Mã.

Đệ tử: Roma là thành phố nên phải có nhiều đường để đến, nhưng Niết Bàn không phải là thành phố mà là cứu cánh. Trong Kinh Sư Tử Hống, Trung Bộ 1, Đức Phật hỏi các ngoại đạo và chính họ cũng phải thừa nhận, “Cứu cánh là một, cứu cánh không phải là đa diện”. Lại nữa, theo Tứ Diệu Đế con đường chân lý đạt đến cứu cánh Niết Bàn chỉ có một, đó là Bát Chánh Đạo. Trong Bát Chánh Đạo chỉ có Chánh Niệm là Tứ Niệm Xứ gồm quán thân, quán thọ, quán tâm và quán pháp; hoàn toàn không có “chánh niệm… chú”.

Mật sư phụ: Đó mới chỉ là chân lý tương đối, còn chân lý thứ hai mới là chân lý tuyệt đối. Đã là “Sanh tử tức Niết Bàn” còn cứu cánh gì nữa, còn phải quán, phải quàn gì nữa?

Đệ tử: Chân lý mà có hai thì “chân lý sau” dứt khoát không phải của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. “Sanh tử cũng là Niết Bàn” thì một pháp môn cũng chẳng cần, huống chi cần đến tám vạn bốn ngàn pháp môn?

Mật sư phụ: Nhưng nhờ Phật Pháp chúng ta mới biết giải thoát ngay ở đây chứ chẳng cần tìm đâu xa. Ta không dạy, ngươi làm sao giác hiểu “Phiền não tức Bồ đề”. Không giác hiểu, làm sao giải thoát ngay trong phiền não.

Đệ tử: Nếu đã biết giải thoát ngay đây rồi; còn tu hành, tụng kinh, gõ mõ, niệm Phật, niệm chú, đòi độc lập tự do… làm gì nữa? Nếu “phiền não tức Bồ đề”, vậy tại sao khi bệnh hoạn, con thấy sư phụ và các tu sĩ khác người thì nhăn nhó, người thì chạy tìm thuốc, kẻ thì đi bác sĩ hoặc đến nhà thương… Sao tất cả không ngồi yên một chỗ để hưởng “Bồ đề” từ phiền não bệnh hoạn? Kể cả những người giảng kinh Đại Thừa như nước cuốn mây trôi, nhưng hễ bị bệnh khổ phiền não là họ chạy biến đi các nơi khác cấp cứu. Có ai chứng minh được gì đâu?

Mật sư phụ: À… thì… cái đó là tinh túy mật pháp, con làm sao hiểu được!

Đệ tử: Vâng, xin lỗi sư phụ. Con không dám bài bác, đụng chạm đến bí mật của sư phụ nữa. Xin quay về nương tựa nơi thần linh và tu tập mật chú.

Mật sư phụ: Phải như thế chứ!

Đệ tử: Thưa sư phụ, với câu đại thần chú “Sa ni ra sa di mê ca sá da hum ni ma sát mệ hồng”, con phải thực hành như thế nào cho có kết quả?  

Mật sư phụ: Này nhé, nghe đây, trước hết ngươi phải nhớ giữ đúng thủ ấn như Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn. Kế đó điều tối quan trọng là phải chí tâm chí thành, đặt trọn niềm tin tuyệt đối vào các câu thần chú thì mới linh ứng. 

Đệ tử: Nhưng… con vẫn không thể tuyệt đối tin được!

Mật sư phụ: Vì sao?

Đệ tử: Vì câu thần chú đó do con vừa nghĩ ra.

Mật sư phụ: Chết chửa, sao không nói trước?

Đệ tử: Dạ, nói trước, Phật Ngàn Mắt Ngàn Tay nhặt ra, lấy đâu để hỏi?

Mật sư phụ: Trời đất! Nám Mô Úm Ma Ni Bát Mệ Hồng… 

Mật sư phụ chưa niệm chú xong, thoắt một cái đã thấy đệ tử xoay mình biến thành một vị Đại Phạm Thiên với ánh sáng chói lòa, bay vút lên bầu trời xanh thẳm. Hẳn nhiên, vị Đại Phạm Thiên sẽ bật mí câu chuyện bí mật về mật pháp này cho các chư Thiên khác để họ liệu đường mà tránh né.

MẬT TỬ


118-THẦY NÀO, TRÒ NẤY.

 

118-THẦY NÀO, TRÒ NẤY.

Đại Thiên Mahadeva được nhiều người xem là sơ tổ của Đại Thừa. Tất nhiên đồ đệ của Đại Thiên phải ca ngợi, tôn vinh thầy tổ của mình. Nhưng dù những ai tin theo Đại Thiên có bênh vực tổ phụ của mình đến đâu, thì các sự kiện sau đây vẫn là thực tế còn ghi lại rành rành trong các sử liệu:

1. Đại Thiên Mahadeva là một kẻ ngoại đạo gia nhập vào Phật giáo và gây phân hóa Tăng đoàn.

2. Đại Thiên còn bị mộng tinh, điều này có nghĩa Đại Thiên vẫn còn dục tưởng, bị thất niệm, không tỉnh giác rơi vào giấc ngủ.

3. Đại Thiên còn dục tưởng nhưng tự xưng mình là A La Hán. Chiếu theo luật Patimokkha, Đại Thiên phạm tội Ba-la-di thứ tư, tự làm rơi đầu.

4. Đại Thiên Bà-la-môn còn dục ái, dục tưởng thì chưa đắc A La Hán. Chưa đắc A La Hán lại dám đưa ra năm luận điểm hạn chế của đạo quả A La Hán, trong đó điều đầu tiên phán ‘A La Hán còn xuất tinh’. Đây là sự hồ đồ ngang ngược, nếu không muốn nói là láo xược.

Những ai còn dục tưởng, còn mộng tinh như Đại Thiên mới còn bênh vực cho ông tổ của mình, và không tin Thánh Tăng A La Hán đoạn trừ được dục, không còn xuất tinh, mộng tinh.

Theo A Tỳ Đạt Ma luận, Đại Thiên Mahadeva là một kẻ “tư thông với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vị Tỳ-kheo”. Các đệ tử của Đại Thiên muốn phủ nhận điều này phải đưa ra chứng cứ đáng tin cậy để chứng minh tuy Bà-la-môn Đại Thiên gây chia rẽ Phật giáo nhưng rất lương thiện và đàng hoàng. Bằng không, những người trí sẽ cho họ là những kẻ ‘thầy nào, trò nấy’.

Những người này hãy đọc kỹ lời Phật dạy dưới đây để hiểu rõ hơn về ông tổ Đại Thiên của mình.

Bài kinh “Thất Niệm”, Tăng Chi 2, Chương 5, XXI. Phẩm Kimbila,

1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này đối với người thất niệm, không tỉnh giác rơi vào giấc ngủ. Thế nào là năm?

2. Ngủ một cách khổ sở; thức dậy một cách khổ sở; thấy ác mộng; chư Thiên không phòng hộ; bất tịnh chảy ra, mộng tinh, di tinh. Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này đối với người thất niệm, không tỉnh giác rơi vào giấc ngủ.

3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này đối với người trú niệm, tỉnh giác rơi vào giấc ngủ. Thế nào là năm?

4. Ngủ một các ngon lành; thức dậy một cách ngon lành; không thấy ác mộng; chư Thiên phòng hộ; bất tịnh không chảy ra. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này đối với người trú niệm, tỉnh giác rơi vào giấc ngủ.

Thừa tự Pháp trích lục:

Này con cháu Bà-la-môn Đại Thiên, ai tin Phật Thích Ca cũng phải tin rằng Đại Thiên Mahadeva bị mộng tinh vì thất niệm, không tỉnh giác rơi vào giấc ngủ. “Thiên ma quấy rối” Đại Thiên chính là con ma dục, là các niệm dục ái đầy dẫy lúc còn tỉnh thức, khiến khi Đại Thiên nằm ngủ mới mơ tầm bậy tầm bạ nên xuất tinh.

Những ai còn bị ma dục quấy rối, ngủ còn mộng tinh nên mới tôn Đại Thiên làm tổ sư, mới bị miệng lưỡi trườn uốn của Đại Thiên đánh lừa. Còn những ai đã xa lìa các dục, ngủ không còn mộng tinh mới đủ tự tin chính mình, mới thấy Đại Thiên còn phàm phu, dục nhiễm, không thể tin theo, chứ đừng nói gì làm tổ sư, bồ-tát.

- Trong tạng Luật Pātimokkha, Đại Phẩm, Tụng Phẩm Thứ Bảy, Đức Phật đã giải thích rõ thế nào là người ngoại đạo đạt yêu cầu, hoặc không đạt yêu cầu để được xuất gia làm Tỳ-khưu:

“[100]... Này các Tỳ-khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế này là người đạt yêu cầu (ārādhako), như thế này là người không đạt yêu cầu (anārādhako).

... người trước đây theo ngoại đạo lai vãng với đĩ điếm (vesiyāgocaro), lai vãng với góa phụ, lai vãng với gái lỡ thời, lai vãng với người vô căn,lai vãng với Tỳ-khưu ni. Này các Tỳ-khưu, người trước đây theo ngoại đạo như thế ấy là người không đạt yêu cầu

Ø Lại nữa, các đoạn Luật kế tiếp, Đức Thế Tôn đã quy định rõ:

đoạn [128]: “- Này các Tỳ-khưu, kẻ giết mẹ chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nêntrục xuất.”

đoạn [129]: “- Này các Tỳ-khưu, kẻ giết cha chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nêntrục xuất.”

đoạn [130]: “- Này các Tỳ-khưu, các vị Tỳ-khưu kia là các vị A-la-hán. Này các Tỳ-khưu, kẻ giết A-la-hán chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.” (Hết trích)

Ý kiến: Người “ngoại đạo lai vãng với đĩ điếm, lai vãng với góa phụ, lai vãng với gái lỡ thời, lai vãng với người vô căn, lai vãng với Tỳ-khưu ni” còn không đạt yêu cầu để được làm Tỳ-khưu. Lại nữa, kẻ phạm một trong các tội giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán còn bị trục xuất khỏi Tăng đoàn.

Hẳn kẻ bị trục xuất nếu muốn tiếp tục ý muốn quấy phá của mình sẽ tìm cách lôi kéo những kẻ tin theo thành lập hội chúng mới. Đây là điều thường thấy. Và đương nhiên những kẻ tin theo sẽ phủ nhận việc thầy tổ mình “tư thông với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vịTỳ-kheo”, để tiếp tục tôn vinh kẻ còn bị mộng tinh làm sơ Tổ, làm Bồ-tát của mình. Đây cũng là điều thường thấy.

Đúng là ‘thầy nào, trò nấy’ hay ‘cá mè một lứa’ là như vậy!

³

Bài kinh “Nghiệp Chướng”, Tăng Chi 3, Chương 6, IX. Phẩm Mát Lạnh

1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, dầu có nghe Diệu Pháp, cũng không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?

2. Ðoạn mạng sống của mẹ; đoạn mạng sống của cha; đoạn mạng sống của A-la-hán; với ác tâm làm Như Lai chảy máu; phá hòa hiệp Tăng; ác tuệ, si mê, câm ngọng.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, dầu cho có nghe Diệu Pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

3. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, được nghe Diệu Pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?

4. Không đoạn mạng sống của mẹ; không đoạn mạng sống của cha; không đoạn mạng sống của A-la-hán; không với ác tâm làm Như Lai chảy máu; không phá hòa hợp Tăng; có trí tuệ, không si mê, câm ngọng.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, nếu được nghe Diệu Pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

Thừa tự Pháp trích lục:

Chiếu theo A Tỳ Đạt Ma Luận của Đại Thừa, Đại Thiên đã phạm những trọng tội: tư thông với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vị Tỳ-kheo. Dù  Đại Thiên có xuất gia làm Tỳ-kheo và dầu có nghe được Diệu Pháp cũng không thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

Nếu có chăng, Đại Thiên phải trả nợ sòng phẳng cho nhân quả trong đọa xứ địa ngục trước đã, kiếp sau mới có thể tiến hóa.

Rõ ràng chỉ có tà nhân, tin theo tà đạo mới chấp nhận và tôn vinh một kẻ tư thông với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vị Tỳ-kheo, ngủ còn mộng tinh làm tổ sư, thánh sư, Bồ-tát của mình.

³

Bài kinh “Mẹ”, Tăng Chi 3, Chương 6, IX. Phẩm Mát Lạnh,

1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp này không thể xảy ra.

Thế nào là sáu?

2. Người đầy đủ tri kiến không thể đoạn mạng sống của mẹ; người đầy đủ tri kiến không thể đoạn mạng sống của cha; người đầy đủ tri kiến không thể đoạn mạng sống của vị A-la-hán; người đầy đủ tri kiến không thể với ác tâm làm Như Lai phải chảy máu; người đầy đủ tri kiến không thể phá hòa hợp Tăng; người đầy đủ tri kiến không thể đề cử một vị Ðạo Sư khác.

Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp này không thể xảy ra.

Thừa tự Pháp trích lục:

Một kẻ loạn luân tư thông với mẹ, lại tàn ác cùng cực giết mẹ, giết cha, giết cả người tu hành, không những không có đầy đủ tri kiến lại còn tận cùng vô đạo đức. Ai có tri kiến và đạo đức lại tôn vinh một kẻ như vậy, ngay cho dù y là kẻ thông manh, khôn lỏi?

³

Bài kinh “Ðấu Tranh”, Tăng Chi 2, Chương 5, XXII. Phẩm Mắng Nhiếc, trang 715-716

1. - Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, là người gây ra cãi cọ, là người gây ra tranh luận, là người gây ra đấu tranh, là người gây ra các cuộc đấu khẩu, là người gây ra kiện tụng trong Tăng chúng. Vị ấy được chờ đợinăm sự nguy hại.

Thế nào là năm?

2. Không chứng điều chưa chứng được; thối thất điều đã chứng được; tiếng ác đồn khắp; khi mạng chung, tâm bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, là người gây ra cãi cọ, là người gây ra tranh luận, là người gây ra đấu tranh, là người gây ra đấu khẩu, là người gây ra kiện tụng trong Tăng chúng. Vị ấy được chờ đợi năm sự nguy hại này.

Thừa tự Pháp trích lục:

Ngay cả đối với các Tỳ-kheo đi theo Chánh Pháp của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, nếu gây cãi cọ, đấu tranh trong Tăng chúng còn bị năm điều nguy hại, huống hồ những ai tin theo ngụy pháp cải biến của các tổ sư gián điệp.

Các kinh văn phát triển đời sau đều giống nhau một điểm: kinh nào cũng thuộc kinh vua, pháp nào cũng tối thượng, cao siêu bậc nhất. Cho nên người thọ trì tin theo những ngụy kinh này đều ngấm ngầm tự cao tự tôn tự đại hơn thua với người khác, hoặc chỉ biết có hội chúng mình, thày tổ mình. Tất cả đã vô tình rơi vào kế ly gián của các tổ sư gián điệp ngoại học.

Những người này đã không thể chứng được Chánh Pháp của Phật, mà còn bị đọa xứ về lâu dài vì tà kiến, tin lầm tà nhân.

Thừa Tự Pháp


124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT!

  124-ĐẠI THỪA DÙ NGUYỆN HAY KHÔNG NGUYỆN CŨNG KHÔNG GIẢI THOÁT! Vì sao? Vì Đại Thừa giáo cũng giống như các Bà-la-môn thời Phật, không biết...